USD và biện pháp của các NHTW

Theo sbv.gov.vn

(Tài chính) Kể từ năm 2008, khi khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) bắt đầu thực hiện các chương trình nới lỏng định lượng, đồng thời duy trì lãi suất cực thấp. Mục tiêu của biện pháp can thiệp này là khuyến khích các doanh nghiệp Mỹ trở về nước để bảo vệ nền kinh tế quốc gia. Chính sách không có tiền lệ này đã đẩy USD lao dốc, các nhà đầu cơ tìm kiếm những kênh đầu tư khác nhằm bảo toàn tài sản. Trong đó, một hướng đầu tư là chuyển USD sang những nước có mức lãi suất cao hơn, chủ yếu là các nền kinh tế mới nổi qui mô lớn.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, dòng vốn đầu tư gián tiếp USD tràn vào gây khó khăn đáng kể cho các ngân hàng trung ương (NHTW) do vừa phải có biện pháp hạn chế dòng vốn vào, vừa phải nới lỏng tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Do lạm phát thường có mối liên hệ chặt chẽ với dòng vốn vào, một số nước tìm cách ngăn chặn nguy cơ lạm phát bằng cách mua lại USD đồng thời với khống chế tiêu dùng trong nước, Brazil và một số nước tiến hành đánh thuế đối với dòng vốn vào. Đồng thời, hầu hết các nước phải nới lỏng tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng, phổ biến là cắt giảm lãi suất và thực hiện các chương trình kích thích tài khóa.

Hiện nay, khi USD đang tăng mạnh so với hầu hết các đồng tiền khác, các NHTW lại phải đối mặt với nguy cơ đào thoát dòng vốn, trong khi lạm phát tại nhiều nước đang ở mức thấp và kinh tế phục hồi chậm chạp, hoạt động đầu tư và tiêu dùng yếu ớt.

Nhìn chung, có nhiều cách can thiệp và mỗi nước có những động thái khác nhau. Trong đó, biện pháp đối phó chủ yếu vẫn là thực hiện các chương trình kích thích tài khóa, đây là hình thức can thiệp được kỳ vọng sẽ nhanh chóng cân bằng cung cầu trong nước, qua đó chặn đà suy giảm kinh tế trước sự tấn công của khủng hoảng.

Về mặt lý thuyết và thực tiễn, cân bằng được cung cầu trong nước sẽ giúp nền kinh tế phát triển bền vững hơn, được các chuyên gia và các nhà tạo lập chính sách ủng hộ tích cực. Cùng với Mỹ, Vương quốc Anh đã sử dụng cách tiếp cận này và đã mang lại thành công như mục tiêu đề ra. Riêng trường hợp Nhật Bản, chính phủ của Thủ tướng Shinzo Abe đã tung ra chương trình nới lỏng tiền tệ nhằm khuyến khích tiêu dùng và đầu tư trong nước, song người dân Nhật Bản vẫn dè dặt chi tiêu nhằm đề phòng khó khăn sau vụ động đất tại Kobe 1995 và thảm họa động đất, sóng thần năm 2011; các doanh nghiệp Nhật Bản có xu hướng tiếp tục mở rộng đầu tư ở nước ngoài với chi phí thấp hơn, mặc dù chính phủ Nhật Bản đã đưa ra nhiều chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp Nhật Bản về nước mở rộng sản xuất, kinh doanh.

Hiện nay, Ấn Độ và Trung Quốc bắt đầu theo đuổi các biện pháp thúc đẩy nhu cầu trong nước sau nhiều năm phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu. Sau nhiều lần do dự, NHTW châu Âu (ECB) cũng phải tung ra chương trình mua trái phiếu qui mô lớn với tổng giá trị mua trái phiếu lên tới 60 tỉ euro/tháng, bắt đầu thực hiện từ ngày 09/3/2015. Cùng với khó khăn tài chính tại Hy Lạp, động thái này của ECB đã đẩy đồng euro lao dốc và được dự đoán là sẽ có giá trị ngang bằng so với USD trong những tháng sắp tới. Trong khi đó, đồng tiền này có giá trị tương đương 1,1795 USD khi bắt đầu lưu hành chính thức (ngày 01/01/1999) và đạt đỉnh cao nhất 1,6073 USD vào tháng 7/2008.

Về tổng thể, hầu như các biện pháp nới lỏng tiền tệ và hạn chế dòng vốn vào ẩn chứa những rủi ro nhất định. Đối với các nước đang phát triển, mức độ rủi ro cao hơn do năng lực cạnh tranh thấp và các hoạt động kinh tế phụ thuộc đáng kể vào nguồn vốn vay, việc nới lỏng tiền tệ thường dẫn đến hậu quả lạm phát. Đối với các nước đang phát triển dựa vào hoạt động xuất khẩu, việc thúc đẩy nhu cầu trong nước càng khó khăn hơn do hàng hóa không xuất khẩu được vì nhu cầu yếu ớt trên toàn cầu, dẫn đến tình trạng hàng tồn kho và sản xuất đình trệ.

Ngay cả đối với nền kinh tế Mỹ, USD tăng mạnh đang đe dọa nhiều doanh nghiệp Mỹ vốn là đầu tàu dẫn dắt nền kinh tế này phục hồi trong những năm qua nhờ xuất khẩu tăng mạnh. Nhiều nhà đầu tư Mỹ lo ngại, USD mạnh sẽ đe dọa kết quả hoạt động trong những tháng tới. Theo tính toán, USD tăng giá khiến hàng hóa của Mỹ trên thị trường thế giới đắt thêm 15-20%. Đối với người tiêu dùng Mỹ, hàng nhập khẩu rẻ hơn, làm giảm nỗi lo lạm phát và giúp Fed có thêm thời gian trước khi tăng lãi suất. Tương tự, nhiều người Mỹ sẽ có xu hướng du lịch từ ra nước ngoài, v.v. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Mỹ phải chấp nhận xu hướng tăng giá của USD và phải thích ứng để tồn tại, phát triển, đặc biệt là những doanh nghiệp phụ thuộc vàp xuất khẩu.

Lý do cụ thể khiến USD tăng giá rất khác nhau giữa các quốc gia, nhưng đa số các trường hợp USD tăng giá là do kinh tế Mỹ tương đối mạnh và USD là đồng tiền được sử dụng trong phần lớn hoạt động thương mại, đầu tư, dự trữ ngoại hối quốc tế. Yếu tố quan trọng khác là kỳ vọng Fed sẽ tăng lãi suất vào cuối năm nay, thậm chí khi ECB duy trì lãi suất thấp hơn mức này nhằm đánh thức nền kinh tế vốn đang trì trệ quá lâu.

Ngoài ra, sự chênh lệch kỳ vọng về sản lượng trong tương lai, cùng với mong muốn của các nhà đầu tư thế giới về nơi ẩn náu an toàn do bất ổn triền miên tại CHLB Nga và Trung Đông, dẫn đến xu hướng rút tiền mặt từ nước ngoài vào các hoạt động đầu tư dưới dạng USD, đẩy USD tăng giá cao hơn.

Như vậy, USD tăng giá đều có tính hai mặt, có thể gây tác động tiêu cực đến hoạt động của các doanh nghiệp và các nền kinh tế trên thế giới. Đối với mỗi quốc gia, quyết định duy trì hoặc điều chỉnh tỉ giá là bài toán cân bằng lợi ích và chi phí. Bên cạnh tác động đến lạm phát và tăng trưởng kinh tế, cần tính toán tác động của tỉ giá điều chỉnh đối với từng khoản mục trên bảng cân đối tài sản quốc gia, quan trọng nhất là cán cân thanh toán.