Vòng quay “rửa tiền” trên thế giới

Hải An

(Tài chính) Phòng chống "rửa tiền" là vấn đề làm đau đầu các nhà chức trách các nước. Mỗi năm bọn tội phạm tiến hành “rửa” từ 1.000-1.500 tỷ USD trên toàn thế giới.

Mỗi năm bọn tội phạm tiến hành “rửa” từ 1.000-1.500 tỷ USD trên toàn thế giới. Nguồn: Internet
Mỗi năm bọn tội phạm tiến hành “rửa” từ 1.000-1.500 tỷ USD trên toàn thế giới. Nguồn: Internet

“Rửa tiền" và các tác hại

Thuật ngữ "rửa tiền" lần đầu tiên xuất hiện trên báo chí Mỹ là vào năm 1973 trong vụ bê bối tài chính Watergate nổi tiếng nước Mỹ. Năm năm sau đó thuật ngữ "rửa tiền" chính thức được sử dụng trong một số văn bản pháp lý của tòa án Mỹ. Thuật ngữ này trở nên phổ biến trong những thập kỷ gần đây bởi tính phổ biến và ảnh hưởng của chúng. Tổ chức chống "rửa tiền" quốc tế (Finance Action Task Force) đã định nghĩa hoạt động của "rửa tiền" là:

• Việc giúp đỡ đối tượng phạm pháp lẩn tránh sự trừng phạt của pháp luật;

• Việc cố ý che giấu nguồn gốc, bản chất, việc cất giấu, di chuyển hay chuyển quyền sở hữu tài sản phạm pháp;

• Việc cố ý mua, sở hữu hay sử dụng tài sản phạm pháp.

Như vậy, hiểu một cách khái quát thì "rửa tiền" là toàn bộ các hoạt động được tiến hành một cách cố ý nhằm hợp pháp hóa tiền và tài sản có nguồn gốc từ tội phạm.

Việc "rửa tiền" thành công sẽ giúp cho các hoạt động phạm tội có thể sinh lợi, để những kẻ tội phạm có thể "hưởng thụ" các thành quả thu được từ các hoạt động tội phạm. Vì vậy, chừng nào một nước còn được coi là nơi ẩn náu an toàn cho hoạt động "rửa tiền" thì khi đó còn có nhiều khả năng nước đó có sức lôi cuốn tội phạm và thúc đẩy tham nhũng.

Tai tiếng về một nơi ẩn náu an toàn cho "rửa tiền" và tài trợ cho khủng bố cũng đã có thể gây ra những hậu quả bất lợi đáng kể cho sự phát triển của một đất nước. Các tổ chức tài chính nước ngoài có thể quyết định hạn chế các giao dịch của mình với những tổ chức là nơi ẩn náu an toàn cho "rửa tiền"; buộc những giao dịch như vậy phải qua sự kiểm soát gắt gao hơn, khiến cho chúng thêm tốn kém hoặc chấm dứt hoàn toàn các mối quan hệ giao dịch hay vay mượn. Ngay cả các doanh nghiệp hợp pháp lẫn những doanh nghiệp là nơi ẩn náu an toàn cho "rửa tiền" cũng có thể bị giảm khả năng tiếp cận các thị trường thế giới hoặc phải tiếp cận với chi phí cao hơn do phải chịu sự kiểm soát gắt gao hơn về quyền sở hữu, các hệ thống tổ chức và kiểm soát.

Ở các nước đang phát triển, lĩnh vực tài chính mới được tư nhân hóa và chính phủ vẫn trong quá trình xây dựng luật lệ quản lý nên họ dễ trở thành mục tiêu và phải gánh chịu tác động nặng nề của hoạt động rửa tiền thời toàn cầu hóa.

"Rửa tiền" và tài trợ cho khủng bố có thể gây nguy hại theo nhiều cách cho sự lành mạnh của khu vực tài chính của một đất nước cũng như cho sự ổn định của từng tổ chức tài chính. Những hậu quả tai hại đó được coi là rủi ro đối với uy tín, nghiệp vụ, pháp lý và rủi ro tập trung đều có mối quan hệ qua lại với nhau. Mỗi rủi ro đều gây ra những chi phí cụ thể: Mất đi hoạt động kinh doanh sinh lợi; Những vấn đề về tính thanh khoản do việc rút tiền gây ra; Giảm giá trị cổ phiếu của các tổ chức tài chính…

Bên cạnh đó, những kẻ "rửa tiền" khét tiếng là những kẻ biết sử dụng “các công ty bình phong”- là những doanh nghiệp có vẻ bề ngoài hợp pháp và tham gia vào hoạt động kinh doanh hợp pháp nhưng trên thực tế lại do bọn tội phạm kiểm soát.

Những công ty bình phong này hòa trộn các quỹ phi pháp với các quỹ hợp pháp để che giấu những khoản tiền bất chính. Khả năng tiếp cận của các công ty bình phong tới những quỹ phi pháp cho phép chúng bao cấp các sản phẩm và dịch vụ của công ty, thậm chí với giá thấp hơn giá thị trường. Do vậy, các doanh nghiệp hợp pháp sẽ khó cạnh tranh với những công ty bình phong khi mục tiêu duy nhất của chúng là bảo toàn và bảo vệ những khoản tiền bất hợp pháp chứ không phải để tạo một ra bất cứ khoản lợi nhuận nào.

Điều này cũng làm tăng sự bất ổn định tiềm tàng về khía cạnh tiền tệ và kinh tế do sự phân bổ sai lệch các nguồn lực bắt nguồn từ tình trạng méo mó giả tạo của giá tài sản và hàng hóa. Nó cũng tạo ra một cơ chế cho trốn thuế, từ đó làm cạn kiệt nguồn thu của đất nước.

Hậu quả kinh tế của các hành vi “rửa tiền” có thể nghiêm trọng hơn. Trong những năm 90 của thế kỷ trước nhiều ngân hàng ở các nước vùng Baltic đã sụp đổ vì khách hàng lo lắng đến rút hết tiền do nghe tin đồn lan rộng về những khoản tiền bẩn rất lớn gửi vào ngân hàng.

Vòng quay "rửa tiền"

Bước 1: Nhập tiền bẩn vào hệ thống kinh tế tài chính: Một số thủ đoạn phổ biến là chia nhỏ tiền bất chính để gửi vào các ngân hàng nhiều lần để số lượng mỗi lần không đến mức phải khai báo, mua các công cụ tiền tệ hay hàng hóa xa xỉ đắt tiền, chuyển lậu tiền ra nước ngoài... Mục đích của bước này là biến đổi hình thái ban đầu của các khoản thu nhập phạm pháp và tách chúng khỏi tổ chức tội phạm nhằm tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng.

Bước 2: Quay vòng tiền: Ở giai đoạn này, tiền có thể được chuyển đổi thành chứng khoán, séc du lịch hoặc qua các ngân hàng khác nhau. Những kẻ "rửa tiền" sử dụng tiền "bẩn" để thực hiện càng nhiều giao dịch tài chính càng tốt, đặc biệt là các giao dịch xuyên quốc gia, nhằm tạo ra một mạng lưới giao dịch chằng chịt, phức tạp và khó lần dấu vết.

Bước 3: Hội nhập tiền đã "rửa" vào hệ thống kinh tế: Dù tiền "bẩn" có được quay vòng qua bao nhiêu giao dịch thì đích đến cuối cùng vẫn là tổ chức tội phạm ban đầu. Một số thủ đoạn tiêu biểu là làm sai lệch hóa đơn trong giao dịch xuất nhập khẩu, chuyển tiền qua một ngân hàng hợp pháp thông qua một ngân hàng trá hình hay công ty ma ở nước ngoài... Sau đó những kẻ "rửa tiền" sẽ đầu tư tiền này vào các hoạt động kinh tế hợp pháp.

Yêu cầu cơ bản để việc "rửa tiền" được thành công là phải khéo léo xóa được mọi dấu vết giấy tờ giao dịch. Tránh khai báo hải quan, xâm nhập cài người vào hệ thống ngân hàng, trì hoãn cung cấp chứng từ là những thủ đoạn phổ biến giúp bọn tội phạm đạt mục đích này.