Thị trường tài chính Việt Nam năm 2021 và triển vọng năm 2022


Năm 2021, mặc dù dịch bệnh COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, nền kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề, hoạt động sản xuất kinh doanh khó khăn, chuỗi cung ứng bị đứt gãy, giá cả hàng hóa cơ bản biến động phức tạp… nhưng các cấu phần thị trường tài chính vẫn đạt được một số kết quả khả quan, góp phần đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế với chi phí thấp hơn năm trước. Tuy nhiên, thị trường tài chính Việt Nam Việt Nam vẫn tồn tại một số hạn chế. Bài viết phân tích thị trường tài chính Việt Nam trong năm 2021, đánh giá về triển vọng năm 2022, và một số khuyến nghị chính sách trong thời gian tới.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Bối cảnh kinh tế thế giới ảnh hưởng đến thị trường tài chính Việt Nam năm 2021

Năm 2021, kinh tế thế giới phục hồi, đặc biệt là ở những quốc gia phát triển, những quốc gia có mức độ bao phủ vắc xin COVID-19 cao. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF (tháng 10/2021), tăng trưởng toàn cầu cả năm 2021 ở mức khoảng 5,9%, cải thiện mạnh so mức tăng trưởng âm (-3,1%) của năm 2020. Điều này giúp thị trường tài chính phục hồi và thị trường chứng khoán (TTCK) liên tục lập đỉnh mới. Tuy nhiên, những điểm cần lưu ý với kinh tế thế giới là: (i) Kinh tế phục hồi chậm hơn so kỳ vọng, không đồng đều giữa các nền kinh tế, nhóm ngành, quy mô và triển vọng còn nhiều bất định; (ii) Sự mất cân đối giữa thị trường tài sản và thực trạng của nền kinh tế thực; (iii) Các quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp có thể đối mặt với triển vọng thiếu tích cực hơn do sự phân bổ bất bình đẳng vắc xin COVID-19.

Tại Việt Nam, với việc dịch COVID-19 bùng phát từ cuối tháng 4/2021, nền kinh tế chịu tác động nặng nề, hoạt động thương mại, dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận tải… bị tác động mạnh; chuỗi cung ứng bị đứt gãy, hoạt động sản xuất kinh doanh khó khăn… Theo đó, tăng trưởng năm 2021 ở mức 2,58%, thấp hơn mức 2,91% của năm 2020. Mặc dù vậy, nền kinh tế vẫn có nhiều điểm sáng: (i) Tăng trưởng kinh tế dương, lạm phát được kiểm soát dưới mức 4%; (ii) Nông nghiệp là bệ đỡ, hoạt động xuất nhập khẩu tăng trưởng tốt; (iii) Dòng vốn đầu tư nước ngoài phục hồi tốt, niềm tin nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục được duy trì; nợ công và bội chi được kiểm soát. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ được phối hợp chặt chẽ và điều hành theo hướng linh hoạt, ưu tiên nguồn lực cho công tác phòng, chống dịch, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội. Đây là những yếu tố có tác động tích cực đến thị trường tài chính (TTTC) Việt Nam năm 2021.

Những kết quả đạt được

Mặc dù tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn do tác động của đại dịch COVID-19 nhưng TTTC lại có sự phát triển nhất định với nhiều điểm sáng, trở thành công cụ quan trọng góp phần phục hồi và phát triển kinh tế, cụ thể:

Thứ nhất, thị trường tài chính đảm bảo khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế với chi phí thấp.

Trên thị trường tiền tệ - tín dụng, tín dụng toàn hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) tăng trưởng khả quan hơn cùng kỳ năm 2020. Năm 2021 tín dụng tăng xấp xỉ 14% so với cuối năm 2020, lãi suất cho vay giảm đáng kể, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp trong giai đoạn dịch bệnh. Đến tháng 11/2021, lãi suất cho vay bình quân khoảng 8,13%, lãi suất huy động bình quân khoảng 3,99%, giảm lần lượt 0,75 điểm % và 0,44 điểm % so với cuối năm 2020. Bên cạnh đó, trên cơ sở tăng cung tiền, điều hành linh hoạt tỷ giá trung tâm đã đảm bảo thanh khoản thị trường thông suốt, nhu cầu ngoại tệ được đáp ứng đầy đủ, kịp thời.

 Trên thị trường vốn, việc huy động vốn trung và dài hạn cũng nhiều kết quả tích cực: (i) Huy động vốn cổ phiếu trên thị trường sơ cấp tăng mạnh, tổng giá trị phát hành cổ phiếu của công ty đại chúng năm 2021 đạt khoảng 88,4 nghìn tỷ đồng, gấp 3,8 lần năm 2020 và tăng 29,1% so với cùng kỳ năm 2019. (ii) Thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) tiếp tục thực hiện tốt vai trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho NSNN, góp phần tái cơ cấu nợ Chính phủ thông qua việc tập trung phát hành các kỳ hạn dài và đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư. Theo đó, lãi suất huy động vốn trên thị trường TPCP giảm mạnh, ước năm 2021 đạt bình quân là 2,3%/năm (giảm 0,57 điểm % so với 2020); trong khi kỳ hạn phát hành ngày càng tăng (bình quân 13,9 năm). Trên thị trường thứ cấp, giao dịch TPCP không ngừng tăng về quy mô và độ sâu, tiệm cận với các nước có thị trường TPCP phát triển trong khu vực và trên thế giới. Quy mô thị trường TPDN tăng trưởng mạnh, đạt khoảng 17,1% GDP, gấp 7,5 lần so với năm 2015. Tính chung cả năm 2021 có tổng cộng 850 đợt phát hành TPDN trong nước với tổng giá trị đạt 510 nghìn tỷ đồng (tăng 10% so với năm 2020), trong đó phát hành riêng lẻ chiếm 94,5%, phát hành ra công chúng chiếm 5,5% tổng khối lượng phát hành. Nhà đầu tư chính trên thị trường là các ngân hàng, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán; tỷ trọng nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp mua sơ cấp TPDN riêng lẻ giảm đáng kể so với năm 2020.

Thứ hai, thị trường cổ phiếu tăng trưởng mạnh, nhà đầu tư cá nhân trở thành động lực của thị trường.

Thị trường cổ phiếu liên tiếp lập đỉnh mới trong năm 2021. Tính đến 31/12/2021, chỉ số VN-Index tăng 34,5% so với cuối năm 2020, và đạt mức kỷ lục 1.500 điểm vào ngày 25/11/2021. Giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu tương đương 91,6% GDP, tăng so mức 65,6% GDP cuối năm 2020. Thanh khoản tăng mạnh lên mức bình quân 25,96 nghìn tỷ đồng/phiên, gấp 3,5 lần năm 2020 (7,4 nghìn tỷ đồng/phiên). Các yếu tố hỗ trợ chính là lợi nhuận DN niêm yết nửa đầu năm 2021 hồi phục tốt, các kênh đầu tư khác như tiền gửi ngân hàng, ngoại tệ, vàng kém hấp dẫn trong bối cảnh giãn cách xã hội, và các giải pháp hỗ trợ kinh tế của Chính phủ được triển khai đồng bộ, tạo niềm tin cho nhà đầu tư.

 Dòng vốn vào thị trường cổ phiếu tăng mạnh nhờ dòng tiền mới của nhà đầu tư cá nhân và dòng tiền đòn bẩy tài chính (margin). Trong năm 2021, có trên 1,5 triệu tài khoản cá nhân mở mới, tăng gấp gần 4 lần so năm trước, cao hơn tổng số tài khoản mở mới trong 4 năm 2017 – 2020 (1,03 triệu tài khoản). Ngoài ra, dòng tiền margin tăng cao (giá trị cho vay giao dịch ký quỹ của hệ thống công ty chứng khoán (CTCK) đến 30/11/2021 đạt 163,8 nghìn tỷ đồng, tăng 92% so với cuối năm 2020) cũng là động lực giúp thị trường phục hồi sau thời gian điều chỉnh.

Thứ ba, năng lực tài chính và quản trị rủi ro của phần lớn các định chế tài chính trong hệ thống được cải thiện.

Hầu hết tổ chức tín dụng (TCTD) đảm bảo các tỷ lệ an toàn hoạt động theo quy định: (i) Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi (LDR) bình quân của các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cuối tháng 11/2021 là 72%, tăng nhẹ so với cuối năm 2020 (71,9%), dưới ngưỡng quy định (85%); (ii) Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung và dài hạn bình quân của các ngân hàng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại 30/9/2021 là 24,3%, giảm so với cuối năm 2020 (24,9%). Đến cuối năm 2021, có 25 ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước công nhận đáp ứng chuẩn Basel II về tỷ lệ an toàn vốn.

Kết quả kinh doanh của hệ thống TCTD tăng trưởng khả quan. 9 tháng đầu năm, lợi nhuận toàn hệ thống đạt 127 nghìn tỷ đồng, tăng 40,5% so cùng kỳ năm ngoái (9T/2020 tăng 2,8%). Trong kỳ, thu nhập thuần từ hoạt động kinh doanh tăng 27% so với cùng kỳ năm 2020 (cùng kỳ năm 2020 tăng 5%). Nguyên nhân chủ yếu do tăng tín dụng và chênh lệch giữa lãi suất cho vay và huy động bình quân cao hơn cùng kỳ. Đồng thời thu nhập từ dịch vụ ngân hàng liên kết bảo hiểm (bancassurance), thu nhập hoạt động dịch vụ của hệ thống tiếp tục ghi nhận mức tăng trưởng tốt.

Quy mô vốn chủ sở hữu của của hệ thống TCTD tiếp tục tăng. Đến hết tháng 9/2021, tổng vốn chủ sở hữu cả hệ thống đạt hơn 1 triệu 115 nghìn tỷ đồng, tăng 14% so với đầu năm (cùng kỳ năm 2020 tăng 11,1%). Trong đó, vốn điều lệ toàn hệ thống đạt 691 nghìn tỷ đồng, tăng 8,6% so với đầu năm (cùng kỳ năm 2020 tăng 4,1%). Trong 9 tháng đầu năm 2021, có 23 TCTD tăng vốn điều lệ thành công.

 Năng lực tài chính của hệ thống CTCK được nâng cao nhờ sự tăng trưởng tích cực của thị trường cổ phiếu và xu hướng gia tăng đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán. Đến 31/12/2021, tổng tài sản hệ thống CTCK tăng 66% so với cuối năm 2020; tổng vốn chủ sở hữu tăng 40%. Tổng lợi nhuận sau thuế năm 2020 tăng 150% chủ yếu do lãi từ hoạt động tự doanh, môi giới chứng khoán, lãi từ các khoản cho vay và phải thu tăng.

Phần lớn các doanh nghiệp bảo hiểm có tình hình tài chính an toàn. Năm 2021, tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường ước đạt 216 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2020 (năm 2020 tăng trưởng 17%). Tổng tài sản toàn hệ thống tới cuối năm 2021 ước đạt 673 nghìn tỷ đồng, tăng 17% so với cuối năm 2020; vốn chủ sở hữu đạt 157 nghìn tỷ đồng (tăng 23%). Biên khả năng thanh toán bình quân toàn hệ thống đạt 240% (cuối 2020: 235%). Cơ cấu đầu tư tài chính an toàn với tỷ trọng TPCP và tiền gửi cao trên 70%.

Thứ tư, cơ sở hàng hóa TTTC ngày càng đa dạng, cùng với việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) trong những năm gần đây tăng trưởng mạnh và có chuyển biến về chất, cơ cấu tổ chức phát hành đa dạng (bất động sản, tổ chức tín dụng, doanh nghiệp dịch vụ và sản xuất), khối lượng phát hành tăng cao. TTCK phái sinh với nhiều sản phẩm mới có mức tăng trưởng rất nhanh và ngày càng phát huy vai trò là công cụ phòng ngừa rủi ro, góp phần thanh khoản trên thị trường cổ phiếu cơ sở. Ngoài sự phát triển của TTCK, sự chuyển dịch mạnh mẽ về công nghệ dẫn tới những tác động làm thay đổi toàn bộ diện mạo ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng theo hướng số hóa.

Một số rủi ro, hạn chế

Thứ nhất, áp lực nợ xấu có thể tăng trong thời gian tới. Tỷ lệ nợ xấu báo cáo (theo Thông tư số 02/2013/TT-NHNN) của Ngân hàng Nhà nước đến cuối tháng 12/2021 là 1,96%, cao hơn so với cuối năm 2020 (1,72%). Đáng chú ý, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 01/2020/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước cần được theo dõi, trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ và hạn chế phát sinh nợ xấu. Bên cạnh đó, một số các ngân hàng thương mại yếu kém còn các khoản tài sản tiềm ẩn trở thành nợ xấu khiến nợ xấu toàn hệ thống tăng.

Thứ hai, tăng trưởng tín dụng vào lĩnh vực bất động sản (BĐS) vẫn còn cao, đến 30/11/2021, tín dụng vào lĩnh vực BĐS tăng 11,1% so với cuối năm 2020 (cùng kỳ năm 2020 tăng 9%), chiếm 20,1% tổng tín dụng toàn hệ thống. Trong đó, tín dụng phục vụ mục đích kinh doanh bất động sản tăng 7,1%, tín dụng phục vụ mục đích để ở và tự sử dụng tăng 13,3%. Cần lưu ý, một số ngân hàng thương mại có tín dụng phục vụ mục đích kinh doanh bất động sản chiếm trên 70% tổng tín dụng lĩnh vực bất động sản (bình quân toàn hệ thống là 35%).

Thứ ba, cơ cấu vốn hóa, thanh khoản và huy động vốn trên thị trường cổ phiếu còn mất cân đối, nhà đầu tư nước ngoài liên tục bán ròng. Năm 2021 có 49 công ty niêm yết mới trên cả ba sàn, giảm so với năm 2020 (65 công ty). Trong đó, phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ, chỉ có 10 công ty có vốn điều lệ trên 1.000 tỷ đồng (năm 2020: 11 công ty) chiếm 81% tổng giá trị cổ phiếu niêm yết mới. Đáng chú ý, vốn huy động phần lớn tập trung vào ngành bất động sản, ngân hàng và công ty chứng khoán, chiếm 68% tổng giá trị cổ phiếu phát hành (năm 2020: 62,6%). Trong đó, giá trị phát hành của doanh nghiệp bất động sản chiếm 38,4%, công ty chứng khoán chiếm 18,4%, ngân hàng chiếm 11,3%. Ngoài ra, khoảng 730 DNNN đã cổ phần hóa nhưng chưa niêm yết, chưa tận dụng được cơ hội TTCK thuận lợi.

Bên cạnh đó, hiện tượng tăng giá cục bộ gấp vài lần đến vài chục lần mang tính đầu cơ tại một số cổ phiếu, nhóm cổ phiếu (đặc biệt nhóm cổ phiếu vốn hóa vừa và nhỏ) không gắn liền với kết quả kinh doanh của DN, ảnh hưởng tới sự bền vững của thị trường và tiềm ẩn các hành vi thao túng giá.

Trái ngược với dòng tiền nội, khối ngoại duy trì xu hướng bán ròng, lũy kế đạt 2,3 tỷ USD trong năm 2021 (trong đó rút ròng khoảng 1,2 tỷ USD tăng, mức không nhiều so với mức 1,05 tỷ USD của năm 2020). Điều này được lý giải do hoạt động chốt lời, tái cơ cấu danh mục đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài và việc chậm cải thiện các yếu tố để nâng hạng thị trường lên TTCK mới nổi cũng có thể khiến dòng vốn ngoại chưa sớm được cải thiện.

Thứ tư, một số rủi ro đối với thị trường TPDN liên quan đến chất lượng tài sản bảo đảm của TPDN phát hành riêng lẻ, hiện tượng một số doanh nghiệp phát hành trái phiếu với giá trị gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu (hơn 10 lần), một số nhóm doanh nghiệp có liên quan (phần lớn là doanh nghiệp BĐS chưa niêm yết) phát hành trái phiếu với giá trị lớn với lãi suất khá cao, tạo rủi ro thanh toán giai đoạn 2022-2024 trong bối cảnh lãi suất có áp lực tăng.

Triển vọng thị trường tài chính Việt Nam năm 2022

Năm 2022 dự báo TTTC Việt Nam tiếp tục có nhiều điểm sáng như:

Ngành ngân hàng có thể vẫn có nhiều tích cực:

Tăng trưởng tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh của hệ thống TCTD nói chung tùy thuộc nhiều vào mức độ kiểm soát dịch bệnh. Tuy nhiên, dự báo hoạt động ngân hàng sẽ có nhiều triển vọng tích cực trong năm 2022 do lạm phát vẫn có thể được kiểm soát; các ngân hàng thương mại có tầm quan trọng hệ thống có mức chênh lệch lãi suất huy động và cho vay tương đối cao; kết quả kinh doanh khả quan; đồng thời doanh thu từ hoạt động dịch vụ, đặc biệt là từ hoạt động phân phối bảo hiểm quy ngân hàng tăng trưởng tốt.

Thị trường cổ phiếu có thể tiếp tục xu hướng tăng, song mức tăng có thể thấp hơn so với năm 2021:

Xu hướng tăng trưởng trung hạn của thị trường vẫn được hỗ trợ bởi triển vọng tăng trưởng kinh tế và Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2022-2023 đã được thông qua. Tuy nhiên, thị trường cổ phiếu tiềm ẩn khả năng kém thuận lợi hơn trong nửa đầu năm 2022 do ảnh hưởng bởi việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất, khối ngoại có thể tiếp tục xu hướng bán ròng. Một số cổ phiếu đầu cơ tăng nóng trong năm 2021 có khả năng sẽ điều chỉnh giảm. Bên cạnh đó nếu lãi suất huy động tăng và các hoạt động sản xuất kinh doanh được nối lại do kiểm soát được dịch COVID-19, một phần dòng tiền có thể dịch chuyển khỏi kênh chứng khoán trở về kênh tiết kiệm hoặc phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh.

Thị trường TPCP triển vọng khả quan:

Dự báo trong năm 2022, thị trường TPCP vẫn tiếp tục là kênh huy động vốn quan trọng cho ngân sách, và là kênh đầu tư an toàn được các nhà đầu tư tổ chức lựa chọn. Mặt bằng lãi suất sau giai đoạn giảm kỷ lục trong cả năm 2021, có khả năng sẽ tăng nhẹ tương đương với mức lãi suất phát hành giai đoạn đầu năm 2020, tuy nhiên vẫn duy trì mặt bằng thấp.

Thị trường TPDN tiếp tục hoàn thiện:

Năm 2022, thị trường TPDN dự báo sẽ ngày càng hoàn thiện và phát triển đồng bộ trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp. Mặc dù vậy, thị trường TPDN nhiều khả năng sẽ kém sôi động hơn giai đoạn 2020-2021, sau khi cơ quan chức năng thực hiện nhiều biện pháp kiểm tra, giám sát tình hình cung cấp các dịch vụ về TPDN, cũng như rà soát lại các tổ chức phát hành khối lượng TPDN lớn, không có tài sản đảm bảo và tình hình tài chính thiếu an toàn. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước cũng đang tích cực hoàn thiện hành lang pháp lý để kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động phát hành, giao dịch TPDN riêng lẻ nhằm hạn chế tối đa rủi ro trên thị trường.

Thị trường bảo hiểm sẽ có những thay đổi căn bản:

Năm 2022, thị trường bảo hiểm kỳ vọng tăng trưởng khả quan với phân khúc bảo hiểm tài sản có thể được mở rộng do mục tiêu đẩy mạnh đầu tư công trong năm 2022 của Chính phủ; bảo hiểm sức khỏe có thể là động lực tăng trưởng do đại dịch COVID-19 đã nâng cao nhận thức của cộng đồng về các rủi ro sức khỏe. Ngoài ra, Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) dự định được thông qua vào năm 2022 cũng sẽ tạo ra những thay đổi cơ bản nhằm kiến tạo thị trường và thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển lành mạnh. Tuy nhiên, khả năng sinh lời lĩnh vực bảo hiểm có thể vẫn gặp sức ép do mặt bằng lãi suất vẫn duy trì mức thấp ảnh hưởng tới lợi nhuận hoạt động đầu tư tài chính.

Khuyến nghị

Trên cơ sở đánh giá phân tích về những mặt đạt được, những vấn đề còn tồn tại và triển vọng thị trường năm 2022, trong thời gian tới cần lưu ý một số vấn đề chính sách như sau:

Thứ nhất, cần tiếp tục theo dõi, giám sát các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 01/2020/TT-NHNN, đảm bảo lộ trình trích lập dự phòng rủi ro theo quy định nhằm hạn chế nợ xấu phát sinh, tạo nguồn lực để xử lý nợ xấu trong thời gian tới; Kiểm soát chặt chẽ dòng vốn tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro cao như chứng khoán, bất động sản; giám sát chặt chẽ trái phiếu của các doanh nghiệp BĐS quy mô lớn, không có tài sản đảm bảo, tài sản đảm bảo là cổ phiếu chất lượng kém.

Thứ hai, tăng số lượng và chất lượng hàng hóa để đảm bảo cân đối cung-cầu, nâng cao tính đa dạng của hàng hóa, tăng thu hút vốn dài hạn vào TTCK sơ cấp, trong đó yêu cầu đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, kiên quyết yêu cầu các DNNN đã cổ phần hóa phải đăng ký giao dịch cổ phiếu. Đẩy nhanh tiến độ triển khai hệ thống giao dịch mới KRX để đáp ứng nhu cầu giao dịch và các yêu cầu về nâng hạng thị trường lên TTCK mới nổi về giao dịch, công bố thông tin, tiêu chuẩn kế toán, sản phẩm đầu tư vào các cổ phiếu hết room ngoại.

Thứ ba, tăng cường giám sát các trường hợp cổ phiếu biến động giá bất thường không gắn liền với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, xử lý nghiêm các vi phạm thao túng giá chứng khoán, giao dịch sử dụng thông tin nội bộ. Đồng thời, tăng cường giám sát, phòng ngừa rủi ro trên thị trường TPDN riêng lẻ về tài sản bảo đảm, rủi ro thanh toán, rủi ro tập trung.

Thứ tư, tiếp tục triển khai các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các ngành nghề, doanh nghiệp và hộ gia đình để định hướng dòng tiền đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh và nền kinh tế thực, giảm bớt dòng vốn đầu cơ vào các thị trường tài sản.   

Tài liệu tham khảo:

Báo cáo World economic outlook của Quỹ tiền tệ Quốc tế, số tháng 10/2021.

Báo cáo Global Economic Prospects của Ngân hàng thế giới, số tháng 6/2021.

Báo cáo Triển vọng thị trường trái phiếu năm 2021,Chứng khoán VCBS.

Nghị quyết số 16/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.

Trang tin điện tử về đầu tư ngước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Website: tapchitaichinh.vn; mof.gov.vn; mpi.gov.vn; hnx.vn.

(*) Vũ Nhữ Thăng, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia

(**) Bài đăng trên Tạp chí Tài chính tháng 02/2022.