Thực trạng và giải pháp tái cơ cấu ngành Công nghiệp đến năm 2030


Trong thời gian qua, quá trình tái cơ cấu ngành Công nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động đã đi vào thực chất hơn, ngày càng hướng vào lõi công nghiệp hóa. Qua đó, góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm công nghiệp của khu vực và của thế giới, thuộc nhóm ASEAN-4 và nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp trung bình cao.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Bài viết trao đổi về những kết quả nổi bật trong tái cơ cấu ngành Công nghiệp giai đoạn 2011-2020, một số khó khăn, thách thức, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần tái cơ cấu ngành Công nghiệp đến năm 2030.

Thực trạng ngành Công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2011-2020

Trong giai đoạn 2011-2020, với việc đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, Việt Nam đã trở thành một trong những trung tâm công nghiệp của khu vực và của thế giới, thuộc nhóm ASEAN-4 và nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp trung bình cao với vị trí thứ 36 trên thế giới vào năm 2019 (năm 2009 đứng vị trí thứ 58).

Theo báo cáo của Bộ Công Thương, quy mô sản xuất công nghiệp của Việt Nam ngày càng mở rộng với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng cao (bình quân 7,7%/năm), tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm bình quân tăng khá cao (7,4%/năm), góp phần gia tăng tỷ trọng của ngành Công nghiệp trong nền kinh tế (từ 26,6% năm 2011 lên 27,5% vào năm 2020), cao hơn tỷ lệ trung bình của thế giới và nhóm các quốc gia thu nhập trung bình thấp.

Bên cạnh đó, chuyển dịch cơ cấu ngành Công nghiệp ngày càng tích cực, theo hướng giảm tỷ trọng các ngành thâm dụng tài nguyên (tỷ trọng ngành khai khoáng giảm gần 2 lần trong 10 năm qua, từ 9,9% xuống còn 5,6%) và tăng tỷ trọng của các ngành chế biến chế tạo (tỷ trọng của ngành chế biến chế tạo (từ 13,4% lên 16,7%). Đồng thời, chuyển dịch nội ngành từ các ngành thâm dụng lao động (dệt may, da giày) sang các ngành thâm dụng vốn (thép, ô tô, hóa chất) và hiện nay là sang các ngành thâm dụng công nghệ (điện tử, công nghệ thông tin).

Công nghiệp chế biến, chế tạo trở thành động lực tăng trưởng chủ yếu của ngành Công nghiệp với tốc độ tăng trưởng cao (bình quân 10,4%/năm) với đóng góp vào xuất khẩu của cả nước tăng nhanh qua các năm và đã vượt qua các nước trong khu vực (từ 64% năm 2010 lên 85,1% kim ngạch xuất khẩu của cả nền kinh tế vào năm 2020). Tỷ trọng giá trị gia tăng của công nghiệp chế biến chế tạo so với toàn cầu tăng từ 0,001% năm 2010 lên 0,003% năm 2019; tỷ trọng xuất khẩu của công nghiệp chế biến chế tạo so với toàn cầu tăng tương ứng từ 0,5% lên 1,8% (theo WB).

Thống kê cho thấy, trong số 11 nhóm ngành Công nghiệp ưu tiên phát triển giai đoạn 2011-2020 thì đến nay 6/11 ngành hiện là các ngành Công nghiệp đứng đầu cả nước, có đóng góp lớn cả về sản xuất, xuất khẩu, đầu tư và việc làm gồm: Dệt may; Da giầy; Thực phẩm chế biến; Thép; Hóa chất; Nhựa. Đặc biệt, một số ngành Công nghiệp xuất khẩu (dệt may, da dày, điện tử…) đã cơ bản hội nhập thành công vào chuỗi giá trị toàn cầu, có năng lực cạnh tranh cao và chiếm thị phần ngày càng lớn trên thị trường quốc tế. Công nghiệp hỗ trợ, sản xuất linh kiện, cụm linh kiện đã dần được hình thành, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và giá trị tăng thêm trong các ngành Công nghiệp, thúc đẩy một số mặt hàng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị, phân phối toàn cầu.

Đáng chú ý, đến nay, công nghiệp vẫn là ngành thu hút đầu tư FDI lớn nhất với tốc độ tăng trưởng cao (tăng gần 2 lần cả về quy mô và tỷ trọng trong 10 năm qua), đặc biệt là trong công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm hơn 60% vốn đầu tư vào các ngành và khoảng 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội) với một số dự án đầu tư lớn của các tập đoàn công nghệ toàn cầu đã tạo động lực tăng trưởng mới cho ngành trong bối cảnh một số ngành Công nghiệp lớn đã chạm trần tăng trưởng (dệt may, da dày, khai khoáng…) và góp phần hình thành nên các trung tâm công nghiệp mới của đất nước.

Rào cản, thách thức

Theo đánh giá của Bộ Công Thương, bên cạnh những thành tựu trong quá trình tái cơ cấu ngành Công nghiệp, vẫn còn không ít những khó khăn, thách thức cơ bản, cụ thể:

- Phần lớn DN nước ta vẫn đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2-3 thế hệ; Tỷ lệ đầu tư đổi mới công nghệ của các DN Việt Nam là dưới 0,5% doanh thu (trong khi Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc 10%); Tỷ lệ đổi mới máy móc, thiết bị hàng năm chỉ đạt 10% trong 5 năm vừa qua (các nước khác trong khu vực tỷ lệ tương ứng là 15-20%). Công nghệ sản xuất trong công nghiệp chậm được đổi mới dẫn đến các DN công nghiệp nước ta chưa đủ năng lực để sản xuất tạo sản phẩm có giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh cao...

- Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo so với GDP, tỷ lệ đóng góp vào công nghiệp chế biến, chế tạo toàn cầu còn hạn chế, kể cả so với các nước trong khối ASEAN. Tỷ trọng của công nghiệp chế biến, chế tạo/GDP chỉ đạt xấp xỉ 16% (mặc dù cao hơn mức trung bình thế giới nhưng thấp thua Trung Quốc (khoảng 27,1%); Hàn Quốc (khoảng 25,3%); Thái Lan (25,3%); Nhật Bản (20,7%)...

- Năng suất lao động còn thấp so với các nước trong khu vực, chưa thực sự dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Công nghiệp là ngành có tốc độ tăng năng suất lao động thấp nhất trong các ngành kinh tế, chậm đổi mới công nghệ với đội ngũ lao động tay nghề thấp (28,54% lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật)...

- Năng lực tự chủ của ngành Công nghiệp còn chưa cao, đặc biệt là các ngành Công nghiệp nền tảng (hóa chất, cơ khí, thép...) và công nghiệp hỗ trợ dẫn đến phụ thuộc chủ yếu vào bên ngoài. Công nghiệp chế biến, chế tạo mới chỉ chiếm khoảng 0,3% toàn cầu, thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN – 4 (Indonesia chiếm khoảng 1,6%; Thái Lan chiếm khoảng 1%).

- Đến nay, Việt Nam phải nhập khẩu hầu hết nguyên, vật liệu đầu vào cho các ngành Công nghiệp lớn hiện nay. Thậm chí một số ngành Công nghiệp chủ đạo như dệt may, da giày, điện tử Việt Nam nhập khẩu hơn 90% nguyên liệu và phụ thuộc quá lớn vào một số thị trường như Trung Quốc, Hàn Quốc… Từ đó, khiến cho các DN trong nước đối mặt với những rủi ro từ biến động của cung cầu thị trường thế giới, đặc biệt là biến động về giá...

- Các DN Việt Nam cơ bản chỉ đóng vai trò là nơi gia công cho xuất khẩu trong chuỗi giá trị toàn cầu với tỷ suất lợi nhuận rất thấp, chỉ khoảng 5 - 10%. Các ngành Công nghiệp và DN nội địa của Việt Nam nhìn chung mới chỉ tham gia được vào các khâu trung gian có giá trị gia tăng thấp (gia công, lắp ráp) trong chuỗi giá trị toàn cầu, trong khi các phân khúc có giá trị gia tăng cao đều ở nước ngoài như các khâu thượng nguồn (nghiên cứu phát triển, thiết kế sản phẩm; quảng bá sản phẩm, phân phối, chăm sóc khách hàng…) và các khâu hạ nguồn (nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết bị sản xuất); các dịch vụ hỗ trợ phát triển công nghiệp còn yếu (kết nối thị trường, đào tạo nguồn nhân lực…).

- DN tư nhân trong nước trong các ngành Công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo chủ yếu quy mô nhỏ và kém hiệu quả hơn so với các DN có vốn đầu tư nước ngoài, còn hạn chế về đổi mới sáng tạo, năng lực công nghệ và sản xuất, chưa tham gia sâu vào các chuỗi cung ứng toàn cầu và chưa có các DN lớn, có năng lực cạnh tranh toàn cầu. Mức độ liên kết giữa DN FDI với DN trong nước chưa cao, từ đó hạn chế năng lực tăng năng suất cho khu vực trong nước thông qua chuyển giao công nghệ và nâng cao trình độ quản lý...

- Phân bố không gian các ngành Công nghiệp chưa khai thác tốt lợi thế cạnh tranh của các vùng, chưa hình thành được các cụm ngành Công nghiệp chuyên môn hóa để liên kết phát triển chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị các ngành Công nghiệp với sự dẫn dắt của các khu công nghiệp, khu kinh tế.

Đề xuất kiến nghị

Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025.

Trong đó, Chính phủ đặt ra nhiệm vụ cơ cấu lại ngành Công nghiệp và đưa ra một số định hướng cơ bản như: Tập trung thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong ngành Công nghiệp; khai thác triệt để thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư để số hóa, công nghệ hóa phương thức sản xuất, kinh doanh nhằm tăng năng suất, chất lượng, sử dụng tài nguyên và năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, gắn với bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Bên cạnh đó, ưu tiên phát triển một số ngành Công nghiệp mũi nhọn, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ; phát triển nhanh các ngành Công nghiệp có giá trị gia tăng cao và dịch chuyển lên các công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực...

Nhằm triển khai thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 nói chung và tái cơ cấu ngành Công nghiệp đến năm 2030 nói riêng, trong thời gian tới cần chú trọng một số vấn đề sau:

Một là, tiếp tục rà soát, xây dựng các chiến lược, kế hoạch phát triển đối với các ngành Công nghiệp giai đoạn 2021-2030 ưu tiên phát triển quốc gia và theo lợi thế của các vùng, địa phương phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước gắn với yêu cầu phát triển hậu COVID-19. Xây dựng Đề án ưu tiên phát triển các ngành Công nghiệp nền tảng nhằm nâng cao năng lực tự chủ của nền kinh tế giai đoạn 2021-2030.

Hai là, rà soát, điều chỉnh các quy hoạch quốc gia, vùng về phân bố không gian phát triển công nghiệp phù hợp với yêu cầu cơ cấu lại các ngành Công nghiệp và phát triển các ngành Công nghiệp trên từng vùng, từng địa phương theo theo lợi thế cạnh tranh. Rà soát, xây dựng chính sách về thúc đẩy phát triển cụm liên kết ngành Công nghiệp chuyên môn hoá, đảm bảo phát triển đồng bộ hệ thống giao thông, vận tải và hạ tầng, dịch vụ cho phát triển cụm liên kết...

Ba là, xây dựng chính sách khuyến khích phát triển dịch vụ hỗ trợ công nghiệp, các trung gian cung cấp dịch vụ tư vấn công nghiệp về đầu tư, tài chính, thị trường, xúc tiến thương mại, quy chuẩn, tiêu chuẩn công nghiệp…; xây dựng mạng lưới các chuyên gia tư vấn công nghiệp nhằm ứng dụng công nghệ hiện đại, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong sản xuất công nghiệp.

Bốn là, đổi mới chính sách đầu tư nhằm thu hút, đón đầu có hiệu quả nguồn vốn từ khu vực tư nhân đầu tư cho phát triển ngành, đón đầu các xu hướng đầu tư, dịch chuyển đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là các chuỗi cung ứng hàng công nghiệp trên thế giới và ở khu vực, dòng đầu tư đang dịch chuyển ra khỏi các trung tâm sản xuất công nghiệp toàn cầu do tác động của các xung đột thương mại và dịch COVID-19 vào các ngành, lĩnh vực ưu tiên và vào công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Năm là, có chính sách khuyến khích các dự án đầu tư vào các phân ngành Công nghiệp phù hợp, đặc biệt là dự án FDI vào các cụm ngành Công nghiệp chuyên môn hóa, thiết lập được chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong nước với sự tham gia của các DN nội địa...; đặc biệt chú trọng việc các địa phương tham gia mạnh mẽ hơn vào việc huy động các nguồn lực đầu tư. Chủ động triển khai các chương trình xúc tiến đầu tư FDI để thu hút được những nhà đầu tư trong các phân ngành Công nghiệp ưu tiên...

Sáu là, xây dựng các chính sách ưu đãi tín dụng đối với các dự án đầu tư theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị trong sản xuất công nghiệp, cụm liên kết ngành Công nghiệp, chuỗi cung ứng theo hệ thống phân phối; Nghiên cứu, học tập kinh nghiệm quốc tế về phát triển của các công cụ hỗ trợ tài chính theo chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị. Xây dựng các nền tảng chuyển đổi số, hình thành các hệ sinh thái công nghiệp để hỗ trợ DN đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số; triển khai các dự án chuyển đổi số mẫu có tính đại diện và khả thi, đặt nền móng hình thành văn hóa đổi mới sáng tạo, dẫn dắt phong trào chuyển đổi số của DN sản xuất công nghiệp...

Tài liệu tham khảo:

1. Chính phủ (2022), Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025;

2. Bộ Công Thương (2021), Dự thảo Báo cáo xây dựng Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn 2021-2030;

3. An Nguyên (2021), Tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu lại ngành Công nghiệp đi vào thực chất, đúng hướng, Báo điện tử Đảng cộng sản;

4.Tái cơ cấu ngành Công nghiệp theo hướng hiện đại trong bối cảnh mới, Tạp chí Tài chính Kỳ 1 tháng 4/2017.

 (*) ThS. Trần Thị Mây, ThS. Nguyễn Thị Thơm, ThS. Vũ Thị Phượng - Trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh

(**) Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 - tháng 5/2022.