Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN theo tinh thần và nội dung của Hiến pháp mới

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng

(Tài chính) Hiến pháp sửa đổi năm 2013 được xây dựng sau gần 30 năm tiến hành đổi mới ở nước ta, trong không khí dân chủ, pháp quyền, mở cửa và hội nhập nên chứa đựng nhiều nội dung và tinh thần mới; đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển bền vững và chủ động hội nhập quốc tế; là bảo đảm chính trị - pháp lý vững chắc cho toàn Đảng, toàn dân ta vững bước tiến lên trong thời kỳ mới.

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN theo tinh thần và nội dung của Hiến pháp mới
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 được xây dựng sau gần 30 năm tiến hành đổi mới ở nước ta. Nguồn: internet

Là một trong những nội dung quan trọng nhất, vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước được Hiến pháp mới thể hiện xuyên suốt ở hầu khắp các chương, điều của Hiến pháp, thể chế hóa sâu sắc và toàn diện các quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nắm vững tinh thần và nội dung hiến định về các tư tưởng, quan điểm này có ý nghĩa quan trọng nâng cao nhận thức, chỉ đạo các hoạt động thực tiễn để đưa Hiến pháp vào cuộc sống, trong đó có nhiệm vụ hàng đầu và quan trọng nhất là tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trước hết, Hiến pháp sửa đổi khẳng định bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (Điều 2). Đây là sự tiếp tục quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về việc đề cao chủ quyền của nhân dân trong xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Về vấn đề này, so với các Hiến pháp trước đây, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 có những nội dung mới, thể hiện nhận thức sâu sắc, đầy đủ, nhất quán và xuyên suốt hơn.

“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” (Điều 2) là một quy định nền tảng, chỉ rõ nguồn gốc, bản chất, mục đích và sức mạnh của quyền lực nhà nước ở nước ta là ở nhân dân. Nguyên lý đó được quy định trong tất cả các Hiến pháp trước đây của Nhà nước ta. Tuy nhiên, điểm mới là ở chỗ, Hiến pháp sửa đổi đã thể hiện đầy đủ hơn tư tưởng nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Bằng Hiến pháp, đạo luật gốc của quốc gia, nhân dân giao quyền, ủy quyền quyền lực nhà nước của mình cho Nhà nước.

Theo đó, không những Điều 2 quy định bản chất nhân dân của Nhà nước ta, mà còn rất nhiều điều thể hiện sâu sắc và nhất quán tư tưởng đề cao chủ quyền của nhân dân. Ngay từ Lời nói đầu của Hiến pháp sửa đổi đã long trọng tuyên bố: Nhân dân Việt Nam là chủ thể “xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này”; tiếp đến, bổ sung đầy đủ các hình thức nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước, không chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân như quy định của các Hiến pháp trước đây, mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp (Điều 6), bằng biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp (Điều 29 và Điều 120). Đảng Cộng sản Việt Nam không những là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mà còn phải “gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”.

Hiến pháp sửa đổi lần này không chỉ ghi nhận Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bao gồm các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, mà còn bổ sung vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước (Điều 9). Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, đóng vai trò “tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước...” (Điều 10).

Những tư duy chính trị - pháp lý mới đó xuất phát từ nhận thức sâu sắc rằng, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước; từ nguồn gốc, bản chất đến mục đích tồn tại cũng như sức mạnh của Nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân. Đây chính là nền tảng hiến định để bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước thuộc về nhân dân, phát huy mạnh mẽ hơn nữa chủ quyền của nhân dân trong đời sống nhà nước. Cơ sở hiến định đó chắc chắn sẽ được cụ thể hóa bằng các đạo luật, như Luật Bầu cử, Luật Bãi miễn đại biểu Quốc hội, Luật Trưng cầu dân ý, Luật Giám sát và phản biện các công việc nhà nước của nhân dân. Các luật này sẽ được Quốc hội xem xét đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của mình trong thời gian tới để từng bước phát huy vai trò của người chủ quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, tạo động lực mới cho sự phát triển đất nước.

Hai là, xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta “là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” (khoản 1, Điều 2), Hiến pháp sửa đổi đã bổ sung một nguyên tắc mới về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta, đó là quyền lực nhà nước là thống nhất, không chỉ được phân công, phối hợp mà còn có sự kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (khoản 3, Điều 2). Đây là một trong những nguyên tắc nền tảng về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Bởi nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nên nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu, một đòi hỏi chính đáng.

 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng nhấn mạnh, kiểm soát quyền lực nhà nước là một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Để kiểm soát được quyền lực nhà nước, đòi hỏi phải hình thành cơ chế bao gồm kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên trong bộ máy nhà nước, giữa ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và trong nội bộ mỗi quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên ngoài - kiểm soát của nhân dân thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng và cá nhân công dân. Với nhận thức đó, kiểm soát quyền lực nhà nước được thể hiện xuyên suốt trong tất cả các chương của Hiến pháp sửa đổi. Đó là cơ sở để hình thành cơ chế nhân dân giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước mà mình đã trao cho mỗi quyền. Đây cũng là cơ sở hiến định để sửa đổi, bổ sung các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân,… nhằm phát huy vai trò của kiểm soát quyền lực nhà nước.

Kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề khó khăn và phức tạp. Bởi kiểm soát quyền lực nhà nước, một mặt, là để phòng, chống sự tha hóa và lạm dụng quyền lực nhà nước, nhưng mặt khác, làm sao để không phải vì kiểm soát quyền lực nhà nước mà làm mất đi tính năng động, mềm dẻo cần phải có trong thực hiện chức năng của Nhà nước. Vì thế, vấn đề cơ bản của kiểm soát quyền lực nhà nước là làm cho bộ máy nhà nước vừa có khả năng kiểm soát được xã hội, lại vừa không kém phần quan trọng là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình.

Do vậy, sau Hiến pháp, dựa trên cơ sở Hiến pháp, Nhà nước sẽ ban hành các đạo luật để xây dựng các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước một cách phù hợp. Đó là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước được cấu thành bởi các chủ thể kiểm soát không phải là Nhà nước (như Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng và trực tiếp là nhân dân) và cơ chế do các chủ thể ở bên trong Nhà nước tự kiểm soát lẫn nhau. Đây cũng chính là cơ sở hiến định để chúng ta tiếp tục đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay bằng việc hoàn thiện các thể chế về tổ chức bộ máy nhà nước.

Ba làlần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, thuật ngữ quyền con người được sử dụng trong Hiến pháp năm 1992. Đó là bước phát triển về quan niệm và nhận thức lý luận. Tuy nhiên, cách thể hiện các quyền con người và quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 chưa thể hiện đầy đủ và sâu sắc quan niệm về bản chất nhân dân của Nhà nước. Với triết lý nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, các quyền con người và quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp sửa đổi trang trọng tuyên bố ngay sau Chương I (Chế độ chính trị).

Cùng với điều đó, Hiến pháp sửa đổi đã có những nhận thức mới về đề cao nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta khẳng định các nguyên tắc: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14). Đây là những nguyên tắc căn bản đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong mối quan hệ với quyền con người, quyền công dân, hạn chế sự tùy tiện cắt xén từ phía Nhà nước; đồng thời là cơ sở hiến định để mọi người và công dân bảo vệ và thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước. Không có tư duy đề cao quyền con người, quyền công dân, không thể có các quy định về các nguyên tắc nền tảng đó của Hiến pháp sửa đổi.

Dựa trên các nguyên tắc này, Hiến pháp sửa đổi đã quy định các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó có bổ sung một số quyền mới, như “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa” (Điều 41); “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” (Điều 43)… Đây là nền tảng hiến định để chúng ta tiếp tục đổi mới thể chế, phát huy nhân tố con người, tạo ra động lực mới cho sự phát triển. Rồi đây, chẳng những các luật về quyền tự do chính trị, kinh tế, dân sự, như Luật về hội, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Biểu tình,... sẽ từng bước được xây dựng và hoàn thiện, mà các luật về thủ tục thực hiện các quyền này, như Luật Tố tụng hình sự, Luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính cũng sẽ được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo tinh thần và nội dung của Hiến pháp mới.

Bốn là, để phản ảnh một giai đoạn mới của việc đề cao chủ quyền của nhân dân, nền tảng chính trị - xã hội rộng lớn của Nhà nước ta, Hiến pháp sửa đổi đã thể hiện một cách sâu sắc, hài hòa về lợi ích và sự đồng thuận xã hội nhằm tạo nên sức mạnh để phát triển, nhất là trong bối cảnh xung đột sắc tộc, tôn giáo, chính trị, kinh tế đang có xu hướng gia tăng ở nhiều nước và khu vực trên thế giới. Theo đó, Hiến pháp sửa đổi không chỉ có các chủ thể như nhân dân, dân tộc - luôn luôn là những chủ thể mở đầu và xuyên suốt, mà còn có những chủ thể cụ thể, như nhà khoa học, nhân tài, người khuyết tật, người nghèo, người cao tuổi, người có hoàn cảnh khó khăn, doanh nhân, doanh nghiệp, người Việt Nam định cư ở nước ngoài,...

Như vậy, Hiến pháp sửa đổi không chỉ ghi nhận lợi ích của nhân dân, dân tộc nói chung mà còn thể hiện lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội. Cùng với điều đó, Hiến pháp sửa đổi còn thể chế hóa những giá trị xã hội được toàn xã hội và nhân dân ta thừa nhận và chia sẻ, như các giá trị tự do, công bằng, bình đẳng, dân chủ, nhân quyền, công khai, minh bạch,... đã được ghi nhận trong nhiều điều, khoản của Hiến pháp sửa đổi.

Đồng thời, trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã hun đúc nên nhiều truyền thống tốt đẹp của dân tộc, như truyền thống đoàn kết dân tộc, truyền thống yêu nước thương nòi, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau,… Những truyền thống và là các giá trị quý báu này đều được thể hiện thấm đượm trong các chương quy định về kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, môi trường và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là những định hướng của các chính sách cơ bản trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường; là cơ sở hiến định để Nhà nước tiếp tục hoàn thiện các thể chế trên các lĩnh vực này trong điều kiện mới.

Năm là, để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Hiến pháp sửa đổi khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; đồng thời bổ sung thêm một nguyên tắc mới như đã nói ở trên về kiểm soát quyền lực nhà nước. Các nguyên tắc này là cơ sở hiến định để các cơ quan nhà nước về lập pháp, hành pháp và tư pháp phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm và thực hiện có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được nhân dân giao cho mỗi quyền; hạn chế và ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quyền lực nhà nước, phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. 

Dựa trên các nguyên tắc đó, bộ máy nhà nước trong Hiến pháp sửa đổi đã có những điều chỉnh để làm rõ hơn, minh bạch hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, bảo đảm sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp có hiệu lực, hiệu quả. Theo đó, Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh.

Chính phủ được Hiến pháp khẳng định không chỉ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội, mà còn là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Việc bổ sung vị trí và vai trò mới này của Chính phủ trong tổ chức bộ máy nhà nước vừa phản ánh nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước, vừa chỉ rõ, Chính phủ không chỉ là cơ quan chấp hành của Quốc hội nhằm tạo cho Chính phủ có đầy đủ vị thế và thẩm quyền độc lập, chịu trách nhiệm trước đất nước và nhân dân.

Tòa án nhân dân không những được quy định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như Hiến pháp năm 1992, mà còn được khẳng định là cơ quan “thực hiện quyền tư pháp” (Điều 102). Quy định mới này chẳng những thống nhất với nguyên tắc tổ chức quyền lực của Nhà nước ta được ghi nhận ở Điều 2 của Hiến pháp sửa đổi, thể hiện sự phân công quyền lực nhà nước một cách mạch lạc, mà còn nhằm đề cao trách nhiệm của tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp. Từ nay, công bằng và công lý của quốc gia được thể hiện tập trung nhất bằng quyền xét xử của tòa án; xã hội và nhân dân sẽ có địa chỉ cụ thể để tham gia xây dựng và giám sát việc thực thi quyền tư pháp mà nhân dân đã giao phó, ủy quyền.

Vai trò và nhiệm vụ của tòa án nhân dân cũng như vai trò và nhiệm vụ của viện kiểm sát nhân dân có sự điều chỉnh, thể hiện tư duy mới trong Hiến pháp sửa đổi. Đối với tòa án nhân dân, khoản 3, Điều 102 đã đưa lên hàng đầu vai trò và nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”, sau đó mới quy định “bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Đối với viện kiểm sát nhân dân, nhấn mạnh vai trò và nhiệm vụ hàng đầu là “bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”, sau đó mới quy định “bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” (khoản 3, Điều 107).

Trong khi đó, Hiến pháp năm 1992 không phân biệt sự khác nhau giữa vai trò, nhiệm vụ của tòa án và viện kiểm sát; cả hai đều có chung một nhiệm vụ: “Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của công dân, bảo vệ tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân” (Điều 126). So sánh với quy định của hai bản Hiến pháp, có thể thấy Hiến pháp sửa đổi đã có một nhận thức mới về vai trò và nhiệm vụ của hai thiết chế tòa án và viện kiểm sát. Nhận thức mới này hoàn toàn phù hợp với đòi hỏi của công cuộc xây dựng và hoàn thiện nền tư pháp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong đó quyền con người, quyền công dân được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt nhất bằng việc thực hiện quyền tư pháp. 

Hiến pháp sửa đổi đã quy định những nguyên tắc, nền tảng về tổ chức và hoạt động thực hiện quyền tư pháp của tòa án nhân dân. Các nguyên tắc này được quy định với sự thể hiện chính xác, súc tích và chứa đựng những tư duy mới. “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” là một nguyên tắc mới ra đời trong Hiến pháp nước ta, thể chế hóa quan điểm của Đảng ta về cải cách tư pháp: “tăng cường tranh tụng trước phiên tòa” nhằm đổi mới tố tụng tư pháp, khắc phục nhược điểm của thủ tục tố tụng xét hỏi hiện hành. Hiến pháp sửa đổi còn quy định: Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7, Điều 70). Quy định mới này là cơ sở hiến định để cải tổ một cách căn bản, nhằm nâng cao vị thế, trách nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao nói chung, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nói riêng trong việc thực hiện quyền tư pháp. Những nội dung mới nói trên cần phải được cụ thể hóa trong các đạo luật về tổ chức tòa án nhân dân, tổ chức viện kiểm sát nhân dân và các luật về tố tụng tư pháp.

Để đổi mới tổ chức chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, Hiến pháp sửa đổi đã quy định một cách khái quát về mô hình chính quyền địa phương, làm cơ sở hiến định để Luật Tổ chức chính quyền địa phương sau này cụ thể hóa. Theo đó, Hiến pháp quy định: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định” (Điều 111). Hiến pháp sửa đổi quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.

Hội đồng Bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước lần đầu tiên được hiến định với tư cách là các thiết chế độc lập, được quy định thành một chương riêng trong Hiến pháp sửa đổi. Việc ra đời hai thiết chế mới này ở nước ta là nhằm tiếp tục phát huy dân chủ, thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tạo điều kiện và cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình trong bầu cử và trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo đó, Hội đồng Bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp. Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Tuy Hiến pháp sửa đổi chưa quy định thiết chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách để kiểm soát về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, như văn kiện của Đảng đã đề ra, nhưng, thay vào đó, Hiến pháp đã nhấn mạnh: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”. “Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý”. “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” (Điều 119). Đây chính là cơ sở hiến định để xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp một cách hiệu quả hơn thông qua việc sửa đổi, bổ sung các luật về tổ chức bộ máy nhà nước và các luật về thanh tra, giám sát trong thời gian tới và là cơ sở để nghiên cứu hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách do luật định.

Hiến pháp sửa đổi đã có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2014. Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 64/2013/QH13, ngày 28/11/2013, về việc thi hành Hiến pháp, trong đó xác định Quốc hội, Chính phủ, các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị có trách nhiệm tổ chức thi hành Hiến pháp; kịp thời triển khai các biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp. Các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng tinh thần và nội dung của Hiến pháp đến các tầng lớp nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, chiến sĩ lực lượng vũ trang và người Việt Nam ở nước ngoài, nhằm nâng cao tình cảm, lòng tin về Hiến pháp để hình thành ý thức chấp hành tự giác, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp; bảo đảm cho Hiến pháp được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Các cơ quan nhà nước từ Trung ương cho đến các cấp, các ngành ở địa phương nhận rõ trách nhiệm của mình trong việc tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp. Theo đó, phải kịp thời rà soát, điều chỉnh cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thông qua việc sửa đổi, bổ sung các luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Đồng thời, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới cho phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp. 

Theo kế hoạch, để thực hiện tinh thần và nội dung mới của Hiến pháp về tổ chức bộ máy nhà nước và các thiết chế trong hệ thống chính trị, từ nay đến tháng 10-2015 (Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII), Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét thông qua 26 dự án luật, pháp lệnh. Trong lĩnh vực quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, từ nay đến năm 2016, Quốc hội sẽ xem xét thông qua 15 dự án luật; trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, từ nay đến năm 2016, Quốc hội sẽ xem xét thông qua 38 dự án luật; và trong lĩnh vực bảo vệ Tổ quốc, từ nay đến năm 2015, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét thông qua 10 dự án luật, pháp lệnh. Như vậy, với 89 dự án luật, pháp lệnh dự kiến sẽ được Quốc hội xem xét thông qua theo tinh thần và nội dung của Hiến pháp mới trong những năm tới, chắc chắn hệ thống thể chế của Nhà nước ta sẽ có bước đổi mới căn bản, toàn diện, tạo ra động lực mới cho sự phát triển đất nước trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.