Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển KT-XH năm 2013 và 3 năm 2011-2013, Kế hoạch phát triển KT-XH năm 2014

Theo na.gov.vn

Đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết của quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 và 3 năm 2011-2013

Trong điều kiện kinh tế thế giới và trong nước còn khó khăn nhưng dưới sự định hướng, chủ trương kịp thời của Đảng và nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, tình hình kinh tế - xã hội nước ta đã có chuyển biến tích cực, đúng hướng và cơ bản thực hiện được mục tiêu tổng quát năm 2013 là “tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012” và “bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”; dự kiến có 12/15 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch[i].

Kinh tế vĩ mô ngày càng ổn định hơn. Xuất khẩu tiếp tục tăng ở mức cao, ước cả năm 2013 nhập siêu chỉ khoảng 500 triệu USD; cán cân thương mại cải thiện[ii] cùng với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giải ngân tăng[iii] tạo cán cân thanh toán tổng thể thặng dư lớn, tăng dự trữ ngoại tệ, từ đó tỷ giá ổn định khá vững chắc. Thị trường tài chính ổn định hơn; mặt bằng lãi suất giảm[iv].

Trong lúc cân đối ngân sách nhà nước gặp nhiều khó khăn nhưng Chính phủ vẫn cố gắng thực hiện tăng lương tối thiểu[v]; miễn, giảm, giãn thuế và một số khoản thu ngân sách khoảng 9.470 tỷ đồng hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cá nhân theo Nghị quyết Quốc hội. Giá một số hàng hóa, dịch vụ công do Nhà nước quản lý từng bước điều chỉnh, hạn chế gây bất lợi cho nền kinh tế.

Việc quản lý giá thuốc chữa bệnh được triển khai cách quản lý mới chặt chẽ hơn; công tác thanh tra, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo. Tổ chức cứu trợ và khắc phục kịp thời thiệt hại do thiên tai, bão lũ gây ra; các chính sách giảm nghèo được quan tâm triển khai đồng bộ, tỷ lệ hộ nghèo tiếp tục giảm; cơ chế, chính sách pháp luật ưu đãi người có công được hoàn thiện; lộ trình tăng tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế được đẩy nhanh và rộng khắp theo mục tiêu bảo hiểm toàn dân.

Giáo dục, đào tạo đạt được một số kết quả nhất định, nhiều văn bản quy phạm pháp luật và đề án liên quan đến phát triển giáo dục, đào tạo đang được khẩn trương xây dựng; mạng lưới trường, lớp mầm non tiếp tục được các địa phương quan tâm phát triển; giáo dục các vùng và các đối tượng khó khăn được ưu tiên đầu tư; hệ thống chính sách, pháp luật về khoa học công nghệ tiếp tục được hoàn thiện.

Chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự cơ bản đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, số vụ án oan sai giảm đáng kể; nhiều khiếu nại, tố cáo nổi cộm về đất đai, tư pháp kéo dài nhiều năm được giải quyết. An ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững, tiềm lực quốc phòng tiếp tục được tăng cường. Công tác đối ngoại được đẩy mạnh, quan hệ song phương, đa phương, nhất là với các đối tác lớn đã đi vào chiều sâu, việc đàm phán các hiệp định thương mại tự do đạt kết quả tích cực, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ vững chắc nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

Về kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 3 năm 2011-2013, theo Nghị quyết Kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm của Quốc hội với mục tiêu tổng quát 2-3 năm đầu là ”Tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tăng trưởng ở mức hợp lý” nhìn tổng thể kết quả 3 năm thì cơ bản đã đạt được mục tiêu tổng quát này, các cân đối lớn của nền kinh tế đạt kết quả tích cực hơn. Cân đối tiết kiệm – đầu tư có chuyển biến rõ rệt, từ năm 2011 đến nay tổng tiết kiệm luôn bằng hoặc cao hơn tổng đầu tư. Cung cầu hàng hóa bảo đảm. Cân đối lương thực đã thực hiện mục tiêu an ninh lương thực, đồng thời xuất khẩu lương thực ngày càng tăng. Cân đối điện đủ nhu cầu sản xuất – tiêu dùng và có dự phòng. Cân đối lao động ổn định trong điều kiện kinh tế rất khó khăn. Hai năm 2012 và 2013 cán cân thương mại có sự cải thiện đáng kể, xuất khẩu giữ nhịp độ tăng trưởng cao, đặc biệt khu vực doanh nghiệp FDI và ngành nông nghiệp liên tục xuất siêu từ năm 2008 đến nay[vi].

Đa số ý kiến đánh giá đây là thành tựu chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế đúng hướng, có phần rất lớn là điều chỉnh mục tiêu phù hợp tạo ra sự cân bằng các mục tiêu đối với nền kinh tế nhưng cũng có ý kiến cho rằng việc cán cân thương mại cải thiện là hệ quả của suy giảm kinh tế. Hệ số ICOR đã giảm từ mức 6,7 giai đoạn 2008-2010 xuống còn 5,53 giai đoạn 2011-2013 cho thấy chất lượng đầu tư phát triển có xu hướng cải thiện; việc triển khai nguồn vốn đầu tư phát triển theo kế hoạch trung hạn đã bước đầu phân bổ vốn nhà nước một cách tập trung, hiệu quả hơn.

Tuy nhiên các chỉ tiêu kinh tế, xã hội đạt thấp theo Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch 5 năm 2011-2015. Một số ý kiến cho rằng, kinh tế nước ta vẫn đang trong giai đoạn khó khăn, tiếp tục phải đối mặt với áp lực lớn trong ngắn hạn và chưa thể trở lại quỹ đạo tăng trưởng nhanh trong 1-2 năm tới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 3 năm 2011-2013 dự kiến sẽ chỉ đạt 5,6%/năm, là mức thấp nhất trong 13 năm trở lại đây, thấp xa so với chỉ tiêu tăng trưởng bình quân theo kế hoạch (6,5-7%). Trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta chậm lại thì một số nước trong khu vực ASEAN đã có sự cải thiện rõ rệt[vii].

Sản xuất nông nghiệp được đánh giá là trụ đỡ của nền kinh tế trong lúc khó khăn, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần từ 3,3% giai đoạn 2006-2010 dự báo chỉ còn 2,81% trong năm 2013. Tình trạng sụt giảm mạnh cả về giá[viii] và số lượng tiêu thụ, nhất là các sản phẩm lúa, gạo, cá tra, cà phê trong năm 2012 và 9 tháng đầu năm 2013 tiếp tục tác động tiêu cực đến đời sống nông dân và tổng cầu của nền kinh tế. Chính sách mua tạm trữ lúa, gạo chưa cải thiện nhiều. Vẫn còn tình trạng doanh nghiệp không có mạng lưới thu mua trực tiếp từ nông dân mà thông qua thương lái nên tình trạng ép giá mua vẫn xảy ra phổ biến.

Tồn kho hàng hóa có giảm trong đó có bộ phận do doanh nghiệp khó khăn thị trường buộc phải cắt giảm công suất, hoạt động cầm chừng đã diễn ra từ năm 2012 và tiếp tục kéo dài đến nay. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động đã quay trở lại (tổng số là 64.906 doanh nghiệp) 8 tháng đầu năm 2013 có xu hướng tăng dần,[ix] tuy nhiên vẫn không nhiều hơn đáng kể số lượng doanh nghiệp giải thể, phá sản, ngừng hoạt động (tổng số là 60.438 doanh nghiệp)[x].

Các doanh nghiệp hiện đang hoạt động vẫn đối mặt với rất nhiều khó khăn[xi], bắt đầu đã có một số doanh nghiệp quy mô trung bình và lớn mặc dù đã cầm cự được trong mấy năm vừa qua, nhưng đến nay vẫn phải ngừng hoạt động, giải thể, phá sản sẽ tác động tiêu cực hơn tới vấn đề lao động, việc làm và thu ngân sách nhà nước[xii]. Việc tiếp cận vốn tín dụng đối với doanh nghiệp còn nhiều khó khăn; cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội dự kiến với số tiền khoảng 30.000 tỷ đồng đã triển khai nhưng số tiền giải ngân chương trình này còn ở mức rất thấp[xiii].

Thiếu việc làm ở nông thôn có xu hướng tăng; tỷ lệ thất nghiệp chung theo báo cáo là giảm, nhưng thực chất là do lao động ở khu vực chính thức đã phải chuyển sang làm việc trong khu vực phi chính thức, đồng thời nhiều lao động thiếu việc làm, không có việc làm thường xuyên, thu nhập thấp và thiếu ổn định. Tốc độ tăng năng suất lao động có xu hướng chậm lại, trong giai đoạn 2003-2007 tốc độ tăng năng suất lao động đạt khoảng 5,17% mỗi năm, giai đoạn 2008-2012 chỉ còn khoảng 3,08% mỗi năm[xiv]. Nhiều ý kiến cho rằng với thực trạng nền kinh tế và tình hình doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong những năm qua nhưng số liệu liên quan đến việc làm, thất nghiệp không có biến động lớn là chưa thỏa đáng; vì vậy cần tiếp tục đánh giá sâu sắc, thực chất hơn, làm rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, tình trạng khó khăn của các doanh nghiệp với chỉ tiêu việc làm, thất nghiệp.

Bội chi ngân sách giảm từ mức 4,9% năm 2011 xuống 4,8% năm 2012 và dự kiến năm 2013 tăng lên 5,3%; ước thực hiện cả năm hụt thu cân đối ngân sách 59.430 tỷ đồng, dự báo 2014 có khả năng sẽ hụt thu ở mức cao hơn nên khó đạt chỉ tiêu đến năm 2015 bội chi ngân sách kể cả trái phiếu Chính phủ dưới 4,5% GDP theo Nghị quyết Quốc hội. Kinh tế vĩ mô chưa có các yếu tố bền vững, các yếu tố phi thị trường[xv] vẫn còn tiềm ẩn. Cải cách tiền lương trong khu vực công phải thực sự là động lực nhưng chưa có nguồn lực để thực hiện; lộ trình thị trường hóa giá điện, than, dịch vụ công vẫn chưa bảo đảm theo Nghị quyết của Quốc hội là chậm nhất đến 2013 thực hiện theo giá thị trường.

Nền kinh tế đứng trước thách thức: một mặt phải sớm chấm dứt can thiệp thị trường bằng các công cụ hành chính để tránh méo mó về các chính sách và phân bổ nguồn lực; mặt khác những khó khăn kinh tế vĩ mô khiến áp lực lạm phát tăng cao luôn tiềm ẩn và mỗi quyết định điều chỉnh chính sách trong quá trình điều hành nếu không hợp lý về thời điểm và liều lượng sẽ gây nên những tác động đến kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý thị trường, tác động xấu đến an sinh xã hội. 

Quản lý thị trường vàng, nhất là hoạt động quản lý và kinh doanh vàng miếng đã mang lại hiệu quả nhất định, bước đầu đã bình ổn thị trường vàng trong nước, tuy nhiên chưa đạt được mục tiêu đưa giá vàng trong nước sát với giá thế giới. Nợ xấu, nợ đọng trong nền kinh tế bao gồm nợ xây dựng cơ bản của Nhà nước với doanh nghiệp, nợ thuế của doanh nghiệp với Nhà nước, nợ xấu của doanh nghiệp với ngân hàng thương mại, nợ đọng giữa các doanh nghiệp với nhau vẫn chưa được xác định cụ thể và theo nhận định là ở mức cao, cần thêm thời gian và nguồn lực để xử lý.

Vấn đề y đức trong ngành y tế như việc tử vong trong tiêm chủng cho trẻ em, việc lập xét nghiệm khống kết quả xét nghiệm huyết học cho người bệnh và quá tải bệnh viện tuyến trung ương gây băn khoăn và bức xúc người dân, dư luận xã hội. Đời sống một bộ phận công nhân, nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Cơ sở hạ tầng vùng đồng bào dân tộc và miền núi còn yếu kém, mới đáp ứng được yêu cầu tối thiểu cuộc sống, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Công tác phòng cháy, chữa cháy đã có chuyển biến nhưng còn chậm, nhiều vụ cháy nổ xảy ra gây thiệt hại lớn về người và của. Tội phạm về tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn ít được phát hiện và khi xử lý còn để kéo dài; nhiều vụ việc vi phạm pháp luật và tội phạm, tệ nạn xã hội, ngang nhiên, trắng trợn kéo dài có dấu hiệu bao che, làm ngơ của cơ quan chức năng sở tại.

Việc triển khai ba đột phá chiến lược đạt được một số kết quả ban đầu nhưng vẫn còn những hạn chế. Việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa còn chậm. Nhiều đạo luật chậm ban hành, bổ sung, sửa đổi như Luật đầu tư công, Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, Luật phá sản, Luật đất đai...

Thị trường tài chính phát triển lệch trong đó thị trường vốn phát triển chậm, chưa tác động đến tính công khai minh bạch hoạt động doanh nghiệp và nền kinh tế, vốn đầu tư doanh nghiệp chủ yếu dựa vào vốn tín dụng ngân hàng thương mại. Việc chuyển giá điện, giá xăng dầu, giá than theo cơ chế thị trường đã có bước tiến, nhưng chưa giải quyết dứt điểm theo tinh thần Nghị quyết Quốc hội. Cải cách hành chính còn nhiều hạn chế, bộ máy ngày càng tăng, một bộ phận cán bộ, công chức không đáp ứng yêu cầu công việc, những cán bộ đáp ứng được yêu cầu thì chưa có chính sách tạo động lực để khai thác hết được năng lực; cải cách tiền lương chưa đạt mục tiêu lương tối thiểu đảm bảo mức sống tối thiểu; hiệu lực, hiệu quả, kỷ cương, kỷ luật chưa cao.

Về phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao với yêu cầu tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, nhiều ý kiến cho rằng mới thể hiện định hướng chính trị, quyết tâm chính trị nhưng thiếu những giải pháp thực hiện mang tính đột phá. Chất lượng giáo dục thấp, còn nặng về bệnh thành tích, đạo đức học đường suy giảm, cơ cấu ngành nghề, quy trình đào tạo, phương pháp dạy và học... còn nhiều bất cập. Chưa có những quyết sách về thu hút nhân tài và phát huy, khai thác tối đa nguồn lực sẵn có. Nguồn nhân lực vẫn trong tình trạng chất lượng thấp, vừa thừa, vừa thiếu.

Về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị, đa số ý kiến cho rằng, đã có quy hoạch, kế hoạch quốc gia, vùng, vùng trọng điểm nhưng thiếu hoặc chưa rõ nguồn lực thực hiện; chưa định hình rõ chính sách thu hút các hình thức đầu tư khác bên cạnh đầu tư nhà nước và những giải pháp để nâng cao chất lượng công trình. Việc triển khai đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng đã bước đầu bắt nhịp với quá trình tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công. Tuy nhiên chưa đánh giá đầy đủ tác động đến cân đối ngân sách trong trung, dài hạn và trần bội chi ngân sách kể cả trái phiếu Chính phủ từng năm để từ đó ban hành cơ chế, chính sách kịp thời, sát thực tiễn nhằm thu hút mọi nguồn lực xã hội tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng. Đầu tư cơ sở hạ tầng đường bộ, đường hàng không được quan tâm, nhưng đường sắt, đường thủy còn hạn chế.

Về thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, các thành viên Ủy ban Kinh tế tuy còn nhiều ý kiến khác nhau về mặt được, mặt chưa được, nhưng cơ bản nhất trí nhận định: kể từ khi có Kết luận Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần 3 khóa XI, triển khai tái cơ cấu nền kinh tế đã đạt một số kết quả quan trọng, góp phần làm cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực hơn; tuy nhiên kết quả chưa đạt mục tiêu theo tinh thần Nghị quyết của Quốc hội là “năm 2012 chuẩn bị các điều kiện để từ năm 2013 đến năm 2015 tạo được chuyển biến mạnh mẽ, cơ bản, có hiệu quả rõ rệt”.

Tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, đã bước đầu kiểm soát chặt chẽ hơn nguồn đầu tư, danh mục đầu tư nhưng vẫn chưa ngăn chặn được từ gốc rễ trách nhiệm quyết định chủ trương đầu tư, phê duyệt dự toán đầu tư quá mức cần thiết, kém hiệu quả[xvi]; việc thay đổi, hủy bỏ chủ trương đầu tư trước đó còn một số bất cập, dẫn đến vẫn còn tình trạng nhiều dự án dở dang, gây lãng phí. Tái cơ cấu thị trường tài chính, trọng tâm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại, đến nay đã cơ bản thực hiện xong việc tái cơ cấu 9 ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém, tuy nhiên cần tập trung giảm nhanh nợ xấu và kiểm soát tình trạng sở hữu chéo các ngân hàng thương mại cổ phần.

Tái cơ cấu doanh nghiệp, trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã có những kết quả ban đầu có tính nền tảng: đã ban hành các Nghị định về quản lý, trách nhiệm quản lý, nhất là vấn đề quản lý vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp; định hướng thoái vốn đầu tư ngoài ngành; hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều đã xây dựng các đề án tự tái cơ cấu. Tuy nhiên nhiều ý kiến băn khoăn vì kết quả mang lại còn chậm và thực tế cho thấy để càng chậm thì hậu quả càng trầm trọng hơn. Thậm chí có thể dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp có tiềm lực, có khả năng tự vượt qua được khó khăn nhưng do chưa có hệ thống chính sách để hỗ trợ quá trình tái cơ cấu như xử lý lỗ, dôi dư tài sản, cán bộ, lao động khi sắp xếp lại doanh nghiệp nên lúng túng, chờ đợi, sẽ ảnh hưởng đến kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Theo Nghị quyết Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội sẽ giám sát tối cao và sẽ đánh giá toàn diện hơn về việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng.

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014

Dự báo tình hình kinh tế - xã hội 2 năm 2014-2015 và triển vọng hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 theo Nghị quyết của Quốc hội

Theo nhiều dự báo, mặc dù thị trường tài chính toàn cầu đang hồi phục nhưng triển vọng kinh tế thế giới năm 2014 khu vực sản xuất vẫn còn trì trệ, các hoạt động đầu tư và thương mại chưa lấy được đà tăng trưởng tốc độ cao trở lại[xvii]. Trong bối cảnh đó, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn thấp, dù năm 2013 tăng được 5 bậc so với năm 2012, nhưng một số chỉ số cấu thành quan trọng lại có sự sụt giảm, như hiệu quả của thị trường lao động tụt 5 bậc, sự phát triển của thị trường tài chính tụt 5 bậc, sự sẵn sàng về công nghệ tụt 4 bậc.

Với những hạn chế, khó khăn của 3 năm 2011-2013 như đã nêu ở trên, đa số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế cho rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2014 sẽ không cao hơn nhiều so với năm 2013; trong các khu vực tạo ra tăng trưởng gồm khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân, khu vực nông nghiệp và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thì chỉ có khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là có khả năng giữ nhịp độ tăng trưởng cao. Việc huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển còn hạn chế do cân đối ngân sách nhà nước sẽ khó khăn hơn, trong khi đầu tư từ các nguồn vốn khác dự báo cũng không tăng nhiều. Lạm phát năm 2014 cũng sẽ đối mặt với nhiều áp lực hơn khi điều chỉnh chính sách vĩ mô, nhất là khi tăng đầu tư công, tăng dư nợ tín dụng, tăng tiền lương, giá điện, than và dịch vụ công.

Với kết quả 3 năm qua, dựa trên xu hướng 2 năm còn lại kế hoạch 5 năm, nhất là khó khăn về cân đối thu chi ngân sách nhà nước và vốn đầu tư phát triển, đa số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế nhận định sẽ khó đạt được các chỉ tiêu của Nghị quyết Quốc hội: tăng trưởng bình quân 6,5-7%/năm, chỉ tiêu về tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 33,5-35%, chỉ tiêu về bội chi ngân sách nhà nước dưới 4,5% GDP, tạo việc làm mới 8 triệu người. Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch 5 năm đã nhấn mạnh mục tiêu tổng quát trong hai, ba năm cuối kế hoạch 5 năm tập trung ”đảm bảo hoàn thành cơ bản cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển nhanh và bền vững, hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội”  và trong bối cảnh phải tập trung xử  lý những tồn tại, nhất là ổn định và lành mạnh hóa thị trường tài chính, nâng cao tính minh bạch của doanh nghiệp, xử lý nợ xấu doanh nghiệp, nợ xấu ngân hàng, nợ đọng xây dựng cơ bản và xử lý các công trình xây dựng dở dang đặt ra nhiều thách thức cần có sự nỗ lực cao độ.

Về mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu chủ yếu

Hầu hết các thành viên Ủy ban Kinh tế nhất trí về dự báo tình hình, mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế, xã hội, môi trường và các nhiệm vụ, giải pháp nêu trong Tờ trình của Chính phủ. Tuy nhiên cũng có ý kiến khác nhau về mục tiêu tổng quát và một số chỉ tiêu chủ yếu.

Về mục tiêu tổng quát, đa số ý kiến cho rằng định hướng tiếp tục ưu tiên mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát là đúng đắn, các chỉ tiêu đề ra là phù hợp; việc tăng trưởng chậm lại, doanh nghiệp khó khăn như vừa qua là phải chấp nhận trong ngắn hạn để có một nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô vững chắc làm tiền đề cho tăng trưởng bền vững trong trung và dài hạn; ổn định vĩ mô phải kiên trì, nhất quán và phục hồi tăng trưởng không thể vội vàng nếu không sẽ đánh mất toàn bộ thành quả đạt được trong 3 năm vừa qua. Do vậy, cần kiên trì tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng ở mức hợp lý trên cơ sở tính toán, hài hòa liều lượng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ; cải thiện cơ cấu chi ngân sách để tăng chi đầu tư phát triển cả về tỷ trọng và số tuyệt đối gắn với tăng tính hiệu quả; hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân, khu vực nông nghiệp phát triển ổn định, chưa nên đặt mục tiêu phục hồi nhịp độ tăng trưởng nhanh.

Một số ý kiến khác nhận định nguyên nhân tình trạng trì trệ của nền kinh tế hiện nay là do đã quá thiên về ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát trong 3 năm qua và thắt chặt quá mức các nguồn lực cho tăng trưởng. Tăng trưởng chậm lại, doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, thu ngân sách khó khăn là kết quả tất yếu vì tổng cầu bị thu hẹp và kéo dài gần 3 năm; tình trạng này nếu tiếp tục duy trì sẽ dẫn đến bất ổn kinh tế vĩ mô trong trung hạn. Vì vậy, cần có sự thay đổi định hướng chính sách, trong khi đầu tư tư nhân sụt giảm mạnh thì phải tăng tỷ trọng đầu tư từ nguồn vốn nhà nước sớm phục hồi tổng cầu, khi đầu tư tư nhân phục hồi sẽ có lộ trình giảm đầu tư nguồn vốn nhà nước. Vì vậy, loại ý kiến này tán thành với mục tiêu tổng quát như Tờ trình của Chính phủ, trong đó nhấn mạnh định hướng phục hồi nhịp độ tăng trưởng kinh tế.

Về các chỉ tiêu chủ yếu, một số ý kiến đề nghị tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2014 chỉ nên ở khoảng 5,5% là mức hợp lý, tránh tạo áp lực lạm phát, bảo đảm giữ được việc làm; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng khoảng 6%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 30-31% GDP; tăng tín dụng ở mức 14-15%; đầu tư từ ngân sách tăng ít nhất 10%. Một số ý kiến khác cơ bản nhất trí với Tờ trình của Chính phủ tăng trưởng kinh tế khoảng 5,8%; nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu tăng từ 13-15% so với ước thực hiện năm 2013, nhập siêu tiếp tục duy trì ở mức hiện nay; tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội chiếm khoảng 30% GDP; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng khoảng 7%.

Về bội chi ngân sách nhà nước, đa số ý kiến tán thành đề nghị tăng bội chi ngân sách để bảo đảm tăng trưởng ở mức hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội, tuy nhiên nhấn mạnh phần bội chi tăng thêm cần phải được tập trung cho chi đầu tư phát triển với danh mục công trình cụ thể và có sự giám sát chặt chẽ để bảo đảm hiệu quả cao nhất. Một số ý kiến không tán thành mức bội chi ngân sách 5,3% GDP như Tờ trình, đề nghị cắt giảm triệt để chi thường xuyên, tiếp tục giữ dưới 5% GDP để bảo đảm an toàn nợ công và cân đối vĩ mô. Một số ý kiến đề nghị làm rõ cơ sở của chỉ tiêu tạo việc làm mới 1,6 triệu người trong bối cảnh một số lượng không nhỏ doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải thể, phá sản; bổ sung các chỉ tiêu: tỷ lệ thất nghiệp chung của nền kinh tế; tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế.

Nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế-xã hội năm 2014

Thứ nhất, kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm nguồn lực đầu tư phát triển với định hướng ưu tiên vào các ngành sản xuất và nông nghiệp để hỗ trợ tăng trưởng ở mức hợp lý và mục tiêu việc làm. Điều hành linh hoạt, chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để phát triển sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh các giải pháp hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ thị trường, kể cả thị trường bất động sản; quan tâm nhiều hơn đến phát triển thị trường trong nước; tạo chuyển biến rõ nét tình trạng hàng hóa tồn kho và nợ xấu.

Xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước hoạt động minh bạch, công khai, việc tăng vốn đầu tư doanh nghiệp chủ yếu qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra công chúng; xây dựng hệ thống chính sách xử lý những vấn đề lớn trong quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp như: lao động dôi dư, thanh lý tài sản không sử dụng, sử dụng không hiệu quả, lỗ phát sinh qua việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành sản xuất chính trong điều kiện thị trường không thuận lợi hiện nay. Rà soát, quản lý chặt chẽ quỹ lương của các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp công ích, bảo đảm tính hợp lý, công bằng và phù hợp với các quy định nhà nước.

Cần rà soát đề án cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và bổ sung định hướng chính sách sử dụng nguồn vốn thu được từ cổ phần hóa. Đẩy nhanh hơn nữa tái cơ cấu đầu tư công kết hợp chặt chẽ với quy hoạch và tầm nhìn dài hạn, khắc phục triệt để, thực chất tình trạng đầu tư dàn trải và lợi ích cục bộ; chấm dứt tình trạng đầu tư vượt quá công năng và yêu cầu thực tế, nhất là việc xây dựng trụ sở quá lớn, phô trương, lãng phí, dành nguồn lực này vào phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, tập trung cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn và các mục tiêu an sinh xã hội.

Hạn chế tối đa các nguy cơ đối với nền kinh tế từ việc sở hữu chéo trong hệ thống các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính; nâng cao tính minh bạch hoạt động của doanh nghiệp, cá nhân là cổ đông lớn và cổ đông, người có liên quan cổ đông đó trong hệ thống các tổ chức tín dụng; tăng cường trích đủ mức dự phòng rủi ro và nâng cao hoạt động hiệu quả công ty mua bán nợ của các ngân hàng thương mại; tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các chính sách thúc đẩy phát triển thị trường vốn một cách bền vững để giảm dần sự phụ thuộc vào vốn tín dụng từ hệ thống ngân hàng thương mại, tránh bị ảnh hưởng quá lớn khi có sự thay đổi điều hành chính sách tiền tệ.

Thứ hai, tập trung hoàn thiện, đồng bộ hệ thống pháp luật, nhất là trong lĩnh vực liên quan đến tái cơ cấu kinh tế, tổ chức bộ máy nhà nước sau khi Hiến pháp 1992 (sửa đổi), Luật đất đai (sửa đổi) và một số luật khác được ban hành. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực nền hành chính công và cải cách hành chính; có giải pháp quyết liệt khắc phục tình trạng bộ máy ngày càng cồng kềnh, bảo đảm kỷ cương, kỷ luật công vụ.

Thứ ba, cần đẩy mạnh phát triển các thị trường: hàng hóa, dịch vụ, tài chính, lao động, khoa học- công nghệ đáp ứng nâng cao chất lượng, hiệu quả; tăng cường công tác quản lý, điều hành theo cơ chế thị trường. Thực hiện kiên quyết, hợp lý lộ trình giá thị trường đối với giá điện, than, dịch vụ công; rà soát lại các tiêu chuẩn, định mức kỹ thuật liên quan đến giá điện, kiên quyết sớm loại trừ các yếu tố tiêu hao, tổn thất, lãng phí trong cơ cấu tổ chức, quản lý; minh bạch hóa về cơ cấu giá thành giá điện. Có lộ trình cụ thể xây dựng một số sản phẩm thương hiệu quốc gia đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Thứ tư, rà soát, đánh giá, sử dụng hiệu quả hơn các quỹ tài chính ngoài ngân sách;  xây dựng đề án sử dụng nguồn tiền thu được từ thoái vốn của doanh nghiệp nhà nước, cổ tức từ phần vốn đầu tư nhà nước vào doanh nghiệp cũng như nguồn thu từ khai thác, bán tài sản công vào ngân sách nhà nước để bổ sung nguồn chi đầu tư phát triển. Tiếp tục rà soát các nhiệm vụ chi, triệt để thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên; đẩy mạnh việc thực hiện trên thực tế thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong tiêu dùng, chi tiêu ngân sách nhà nước. Xây dựng lộ trình xử lý một số khoản nợ tồn tại từ nhiều năm nay như nợ Quỹ hoàn thuế, nợ khối lượng xây dựng cơ bản, khoản ứng trước ngân sách nhà nước chưa thu hồi, nợ cấp bù lãi suất cho ngân hàng chính sách để bảo đảm minh bạch cân đối ngân sách nhà nước.

Thứ năm, nghiên cứu điều chỉnh chính sách thu mua tạm trữ lúa theo hướng chủ động, dài hơi hơn; tập trung nguồn lực hỗ trợ phát triển sản xuất, thay đổi tư duy sản xuất từ số lượng sang chất lượng, đẩy mạnh áp dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Nâng cao khả năng cạnh tranh, tăng cường ứng dụng, nhân rộng các mô hình quản lý, sản xuất trong nông nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao. Có cơ chế, chính sách cho chuyển đổi từ trồng lúa năng suất, giá trị thấp sang trồng các loại cây khác có hiệu quả hơn, hỗ trợ người nông dân chuyển đổi sản xuất để khắc phục tình trạng bỏ đất hoang hóa.

Thứ sáu, tiến hành rà soát, đánh giá hiệu quả các cơ chế, chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với người có công, người nghèo, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, tạo việc làm. Xem xét, đề xuất giảm bớt đầu mối, bộ máy quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia, nhất là các chương trình liên quan đến giảm nghèo, an sinh xã hội; tăng cường lồng ghép các chương trình khuyến nông, khuyến lâm với các hoạt động tín dụng chính sách góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu giảm nghèo bền vững và chương trình xây dựng nông thôn mới; tiếp tục chủ động phòng, chống, ứng phó với thiên tai, bão lũ; thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người dân và giảm quá tải bệnh viện, nhất là bệnh viện tuyến trung ương.

Thứ bảy, tiếp tục có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và đào tạo nâng cao cho lực lượng lao động bị dôi dư hoặc bị thất nghiệp để tìm được việc làm mới. Sửa đổi hệ thống chính sách khuyến khích thực sự thu hút, sử dụng nhân tài, lao động chất lượng cao. Cụ thể hóa các giải pháp để thực hiện mục tiêu lao động đã qua đào tạo, đào tạo nghề và nâng cao chất lượng đáp ứng quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó quan tâm hơn nữa, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong giáo dục và đào tạo nghề cho người dân tộc thiểu số. Tăng cường giám sát, kiểm tra kết quả thực hiện các chỉ tiêu tạo việc làm mới, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ giảm hộ nghèo, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo; quản lý nhà nước về lĩnh vực dạy nghề, đặc biệt việc thực hiện chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn.

Thứ tám, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, giải quyết những vấn đề bức xúc xã hội, khiếu nại, tố cáo của công dân, nhất là những vụ liên quan đến đất đai, tạo sự đồng thuận của nhân dân đối với những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tăng cường công tác phòng ngừa, trấn áp tội phạm nhất là tội phạm có tổ chức, tội phạm nguy hiểm, tội phạm công nghệ cao; giữ vững an ninh; đảm bảo trật tự, an toàn xã hội; phòng chống cháy nổ; trật tự an toàn giao thông, bằng nhiều biện pháp giáo dục, quản lý và tập trung đầu tư cơ sở vật chất để đưa số vụ, số người bị thương và bị tử vong do tai nạn giao thông thấp hơn năm 2013.

Thứ chín, tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác và hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng, nỗ lực làm sâu sắc hơn nữa quan hệ với các đối tác lớn. Tham gia và đóng góp ngày càng tích cực, chủ động, trách nhiệm vào các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu, đặc biệt là Liên Hợp Quốc. Chủ động tích cực cho tiến trình hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015; chuẩn bị các điều kiện để triển khai nhanh, hiệu quả khi một số hiệp định quan trọng như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU được ký kết. Kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời của Tổ quốc; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu.

Trên đây là Báo cáo thẩm tra đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2013 và kết quả thực hiện 3 năm 2011-2013; Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2014, Ủy ban Kinh tế xin báo cáo Quốc hội.


[i] Ba chỉ tiêu không đạt là tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP; tạo việc làm.

[ii] Điều này giúp giải tỏa vấn đề tỷ giá vốn căng thẳng trong suốt 5-7 năm qua.

[iii] Ước 8 tháng đầu năm số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giải ngân đạt 7,56 tỷ USD, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2012.

[iv] Lãi suất huy động bình quân khoảng 6,8%/năm, nếu tính cả chi phí dự trữ bắt buộc và dự trữ thanh toán thì lãi suất tiền gửi bình quân khoảng 7,16%/năm. Lãi suất cho vay phổ biến ở mức 9-11,5%/năm với vay ngắn hạn và 11,5-13%/năm đối với vay trung và dài hạn, các lĩnh vực uy tiên ở mức 7-9%/năm. Lãi suất tái cấp vốn là 7%/năm và lãi suất tái chiết khấu là 5%/năm.

[v] Hội đồng tiền lương quốc gia trình Thủ tướng chính phủ mức lương tối tối thiểu được áp dụng từ ngày 1-1-2014 dành cho lao động vùng 1 là 2,75 triệu đồng/tháng, vùng 2 là 2,45 triệu đồng, vùng 3 là 2,1 triệu đồng và vùng 4 là 1,9 triệu đồng, trong đó lương vùng 1-3 tăng 17%, riêng vùng 4 tăng 15% so với năm 2013. Mức tăng trên cũng gần tương đương với mức tăng của năm 2013 so với năm 2012, từ 16-18%, tùy theo vùng. ...

[vi] FDI xuất siêu ngày càng gia tăng số tuyệt đối. Năm 2008 xuất siêu 6,6 tỷ USD; năm 2009 xuất siêu 4,3 tỷ USD; năm 2010 xuất siêu 2,1 tỷ USD; sau đó tăng lên rất nhanh mức xuất siêu 6,2 tỷ USD năm 2011 và 12,3 tỷ USD xuất siêu năm 2012. Khu vực nông nghiệp năm 2010 xuất siêu 7,2 tỷ USD; năm 2011 xuất siêu 9,2 tỷ USD; và năm 2012 xuất siêu 10,6 tỷ USD.

[vii] Theo số liệu thống kê mới đây của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) thì ngoài Việt Nam chỉ có Brunei (từ 3,4% năm 2011 xuống 0,9% năm 2012) và Singapore (từ 5,2% năm 2011 xuống 1,3% năm 2012) là có sự sụt giảm mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Một số nước có chuyển biến khá tích cực như: Myanmar (tăng từ 5,6% năm 2011 lên 7,6% năm 2012), Campuchia (tăng từ mức 7,1% năm 2011 lên 7,3% năm 2012)…

[viii] Giá lương thực giảm liên tục, năm 2012 giảm 5%, năm 2013 giảm khoảng 3%.

[ix] Theo báo cáo Bộ Tài chính và báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ước 8 tháng đầu năm số doanh nghiệp đăng ký mới là 54.257 doanh nghiệp tăng 9,5% so với cùng kỳ (cùng kỳ năm ngoái giảm 11,5%), nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc khu vực công thương ngoài quốc doanh (53.163 doanh nghiệp) có quy mô nhỏ; 10.649 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động quay trở lại.

[x] Theo báo cáo Bộ Tài chính, tính đến hết tháng 8/2013, số lượng doanh nghiệp giải thể, phá sản, ngừng hoạt động là 41.836 doanh nghiệp; số lượng doanh nghiệp bỏ trốn, mất tích là 18.602 doanh nghiệp

[xi] Theo báo cáo của Bộ Tài chính trong quý II/2013, số doanh nghiệp kê khai lỗ chiếm gần 66% tổng số doanh nghiệp nộp tờ khai với tổng số lỗ tăng 7,5% so với quý I/2013 và tăng 11,9% so với bình quân quý năm 2012. Trong 6 tháng đầu năm có đến 79% doanh nghiệp kê khai thuế GTGT nhưng không phát sinh thuế phải nộp. Bên cạnh đó, theo HSBC, chỉ số PMI liên tiếp 3 tháng gần đây dưới ngưỡng 50 (ngưỡng mở rộng sản xuất), nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị vật tư cho hoạt động sản xuất rất yếu (chỉ số nhập siêu/XK đạt thấp (khoảng 0,7%) so với nhiều năm trở lại đây và lượng xăng dầu nhập khẩu giảm 25.3%) 

[xii] Tính đến hết tháng 7/2013 số lao động đăng ký thất nghiệp có giảm so với năm 2012 nhưng vẫn ở mức cao là 283.110 người (cùng kỳ năm ngoái là 294.906 người).

[xiii] Đến 31/8/2013, sau gần 3 tháng triển khai thì số tiền cam kết cho vay khách hàng là cá nhân chỉ là 105,32 tỷ đồng, giải ngân được 64,9 tỷ đồng; ký hợp đồng tín dụng với 2 khách hàng là doanh nghiệp với số tiền 658 tỷ đồng, mới giải ngân cho 1 doanh nghiệp 34,3 tỷ đồng.

[xiv] Kinh tế Việt Nam từ chính sách ổn định tổng cầu sang chính sách trọng cung để thúc đẩy tăng trưởng dài hạn. Phạm Thế Anh và Đinh Tuấn Minh, Nhà xuất bản Tri thức.

[xv] Trong tháng 8, lạm phát so với cùng kỳ ở mức khá cao so với các tháng trước (7.5%) nhưng lạm phát loại trừ yếu tố tăng giá xăng dầu, điện, dịch vụ công chỉ ở mức 3,43%.

[xvi] Bộ Giao thông vận tải cho xem xét lại 4 dự án (3 dự án đường bộ, 1 dự án cầu), điều chỉnh lại thiết kế, tổng mức đầu tư cho thiết thực và đã giảm được 15.300 tỷ đồng. Có ĐBQH đặt ra câu hỏi về những con đường, trụ sở cơ quan công quyền xây dựng đồ sộ, lãng phí, đưa vào sử dụng không khai thác hết công năng thiết kế, gây lãng phí nguồn ngân sách quốc gia.

[xvii] Tình trạng nợ nần leo thang của Mỹ gây tâm lý lo ngại trên thị trường tài chính toàn cầu; sụt giảm đầu tư ở Trung Quốc tác động tiêu cực đến tăng trưởng nền kinh tế nước này và quan hệ thương mại, đầu tư với phần còn lại của thế giới. Bất ổn tại Syria, bán đảo Triều Tiên và xung đột tại một số điểm nóng có thể gây rủi ro biến động mạnh giá cả dầu mỏ và lương thực. Theo dự báo mới nhất của IMF, kinh tế toàn cầu 2014 tăng trưởng ở mức 3,8%, thấp hơn mức 4% dự báo hồi tháng 4/2013. IMF cũng hạ dự báo tăng trưởng kinh tế Mỹ từ 1,9% xuống 1,7% ; Trung Quốc từ 8,1% xuống 7,8%; khu vực đồng EURO từ âm 0,4% xuống âm 0,6%.