Số liệu đầu tư tháng 11 và 11 tháng đầu năm 2019

Theo gso.gov.vn

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đang tập trung triển khai thực hiện các dự án, công trình nhằm giải ngân hết kế hoạch vốn đã giao năm 2019, tuy nhiên vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 11 tháng mới đạt 78,6% kế hoạch năm và tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước, thấp nhất trong giai đoạn 2016-2019. Trong khi đó, vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục giữ đà phát triển với số vốn thực hiện cao nhất trong nhiều năm trở lại đây.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 11/2019 ước tính đạt 39,8 nghìn tỷ đồng, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn Trung ương 7,4 nghìn tỷ đồng, tăng 14%; vốn địa phương 32,4 nghìn tỷ đồng, tăng 8,3%. Tính chung 11 tháng, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 299,4 nghìn tỷ đồng, bằng 78,6% kế hoạch năm và tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2018 bằng 80,6% và tăng 12,4%), gồm có:

- Vốn Trung ương quản lý đạt 43,7 nghìn tỷ đồng, bằng 72,6% kế hoạch năm và giảm 15,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Bộ Giao thông Vận tải đạt 12.365 tỷ đồng, bằng 69,9% và giảm 23,5%; Bộ Y tế 3.429 tỷ đồng, bằng 64,8% và tăng 41,8%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2.560 tỷ đồng, bằng 75,3% và giảm 56,4%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 1.122 tỷ đồng, bằng 60,7% và tăng 20,7%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 886 tỷ đồng, bằng 67,6% và giảm 19,1%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 536 tỷ đồng, bằng 71,9% và giảm 7%; Bộ Khoa học và Công nghệ 255 tỷ đồng, bằng 79,7% và tăng 34,2%; Bộ Xây dựng 210 tỷ đồng, bằng 84,2% và giảm 7,7%; Bộ Công Thương 203 tỷ đồng, bằng 83,1% và tăng 5,5%; Bộ Thông tin và Truyền thông 127 tỷ đồng, bằng 72,9% và tăng 13,8%.

- Vốn địa phương quản lý đạt 255,7 nghìn tỷ đồng, bằng 79,7% kế hoạch năm và tăng 10,3% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 172,4 nghìn tỷ đồng, bằng 76,4% và tăng 6,9%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 70,1 nghìn tỷ đồng, bằng 86,4% và tăng 17,6%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 13,2 nghìn tỷ đồng, bằng 93,8% và tăng 20,4%. Vốn thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước 11 tháng năm 2019 của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 39,2 nghìn tỷ đồng, bằng 79,3% kế hoạch năm và tăng 23,3% so với cùng kỳ năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 20,4 nghìn tỷ đồng, bằng 55,4% và giảm 12,2%; Quảng Ninh 10,4 nghìn tỷ đồng, bằng 89,7% và tăng 8,3%; Hải Phòng 9.154 tỷ đồng, bằng 89% và tăng 3,1%; Bình Dương 8.571 tỷ đồng, bằng 70,6% và tăng 24,1%; Thanh Hóa 7.071 tỷ đồng, bằng 90,6% và tăng 23,7%; Đồng Nai 6.032 tỷ đồng, bằng 90,2% và giảm 2%; Bà Rịa - Vũng Tàu 6.027 tỷ đồng, bằng 91,4% và tăng 0,8%; Quảng Nam 5.856 tỷ đồng, bằng 78,9% và tăng 33,3%.

Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến 20/11/2019 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 31,8 tỷ USD, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó có 3.478 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 14,7 tỷ USD, tăng 28,2% về số dự án và giảm 7% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; 1.256 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 5,9 tỷ USD, giảm 20,7%; 8.561 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 11,2 tỷ USD, tăng 47,1%. Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần có 2.092 lượt làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp là hơn 6,8 tỷ USD và 6.469 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị gần 4,4 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 11 tháng ước tính đạt 17,6 tỷ USD, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước.

Trong 11 tháng năm nay, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được cấp phép mới đầu tư nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký của các dự án đạt 10.333,5 triệu USD, chiếm 70,4% tổng vốn đăng ký cấp mới; ngành hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1.439,1 triệu USD, chiếm 9,8%; các ngành còn lại đạt 2.907,5 triệu USD, chiếm 19,8%. Nếu tính cả vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong 11 tháng đạt 15.438,7 triệu USD, chiếm 75,1% tổng vốn đăng ký; ngành kinh doanh bất động sản đạt 1.415,9 triệu USD, chiếm 6,9%; các ngành còn lại đạt 3.698,9 triệu USD, chiếm 18%. Đối với hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 6.122,5 triệu USD, chiếm 54,5% tổng giá trị góp vốn; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1.898,4 triệu USD, chiếm 16,9%; các ngành còn lại đạt 3.220,7 triệu USD, chiếm 28,6%.

Trong số 76 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 11 tháng, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 2.913,6 triệu USD, chiếm 19,8% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Trung Quốc 2.281 triệu USD, chiếm 15,5%; Xin-ga-po 1.951,7 triệu USD, chiếm 13,3%; Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ) 1.928,4 triệu USD, chiếm 13,1%; Nhật Bản 1.656,8 triệu USD, chiếm 11,3%; Đài Loan 726,6 triệu USD, chiếm 4,9%; Xa-moa 569,9 triệu USD, chiếm 3,9%; Thái Lan 557,5 triệu USD, chiếm 3,8%.

Đầu tư của Việt nam ra nước ngoài trong 11 tháng năm nay có 148 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn của phía Việt Nam là 353,8 triệu USD; có 29 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm là 105 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) 11 tháng năm 2019 đạt 458,8 triệu USD, trong đó lĩnh vực bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 118,2 triệu USD, chiếm 25,8% tổng vốn đầu tư; nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 65,6 triệu USD, chiếm 14,3%; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đạt 60 triệu USD, chiếm 13,1%; hoạt động kinh doanh bất động sản 59,3 triệu USD, chiếm 12,9%. Trong 11 tháng có 31 quốc gia, vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam, trong đó Ô-xtrây-li-a là nước dẫn đầu với 141,3 triệu USD, chiếm 30,8%; Hoa Kỳ 93,4 triệu USD, chiếm 20,4%; Tây Ban Nha 59,8 triệu USD, chiếm 13%; Cam-pu-chia 50,7 triệu USD, chiếm 11,1%; Xin-ga-po 48 triệu USD, chiếm 10,5%.