Nỗ lực xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại, chuyên nghiệp và hiệu quả


Bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực đối với sự phát triển bền vững của một đất nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của một chế độ xã hội.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Trong đó, chính sách bảo hiểm xã hội luôn được coi là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội. Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội đã tiếp tục phát triển quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với chính sách bảo hiểm xã hội trong tình hình mới, thể hiện tầm nhìn chiến lược có tính xuyên suốt đối với việc phát triển bảo hiểm xã hội trong hệ thống chính sách xã hội của nước ta.

Dấu mốc quan trọng

Ngày 22/11/2012, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) giai đoạn 2012 - 2020, đánh dấu mốc quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu an sinh xã hội (ASXH). Sau hơn 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW đã đem lại nhiều chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Theo đó, hệ thống chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT từng bước được hoàn thiện, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo thuận lợi cho người lao động (NLĐ) và người dân được tham gia BHXH, BHYT; đối tượng tham gia BHXH bắt buộc được mở rộng đến NLĐ có hợp đồng lao động từ một tháng trở lên, NLĐ Việt Nam làm việc ở nước ngoài và NLĐ nước ngoài làm việc ở Việt Nam; chế độ hưu trí, tử tuất được thiết kế theo hướng tiệm cận với nguyên tắc đóng - hưởng, từng bước hướng đến sự bình đẳng trong thụ hưởng chính sách giữa các nhóm đối tượng.

Nhận thức của các cấp ủy Đảng, cán bộ, người dân, NLĐ về chính sách BHXH, BHYT được nâng lên rõ rệt. Nhiều cấp ủy, chính quyền đã nâng cao trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, vận động nhân dân; chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch công tác BHXH, BHYT.

Tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị do Ban Kinh tế Trung ương phối hợp BHXH Việt Nam tổ chức, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Nguyễn Thị Minh cho biết, một trong những mục tiêu lớn của Nghị quyết số 21-NQ/TW đặt ra là xây dựng hệ thống BHXH hiện đại, chuyên nghiệp và hiệu quả. Mục tiêu này đặt ra trách nhiệm rất lớn cho cơ quan BHXH với vai trò là tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT. Vì vậy, thời gian qua, ngành BHXH đã quyết liệt chỉ đạo việc tổ chức thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ chính trị được giao, đổi mới phương thức hoạt động, từng bước xây dựng ngành BHXH hiện đại, chuyên nghiệp, hướng tới sự hài lòng của người dân, đơn vị.

Hiện nay, BHXH Việt Nam đã cung cấp 14 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4; Hệ thống thông tin giám định kết nối hầu hết với cơ sở khám, chữa bệnh trên phạm vi toàn quốc; đưa vào vận hành Trung tâm Điều hành hệ thống công nghệ thông tin, Trung tâm Dịch vụ khách hàng, phục vụ tư vấn, giải đáp cho người dân, NLĐ...

Tầm nhìn chiến lược có tính xuyên suốt phát triển bảo hiểm xã hội

Hiện thực hóa các quan điểm chỉ đạo về ASXH tại Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, ngày 23/5/2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH. Theo đó, Nghị quyết số 28-NQ/TW đã tiếp tục phát triển quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với chính sách BHXH trong tình hình mới, xem BHXH là trụ cột chính của hệ thống chính sách ASXH; phát triển hệ thống chính sách BHXH linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế với nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững; cải cách chính sách BHXH là vấn đề vừa cấp bách, vừa lâu dài, sao cho mọi người dân đều được bảo đảm ASXH; xây dựng hệ thống tổ chức thực hiện chính sách tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả, hiện đại. Với mục tiêu tổng quát Nghị quyết số 28-NQ/TW là: Cải cách chính sách BHXH để BHXH thực sự là một trụ cột chính của hệ thống ASXH, từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ BHXH, hướng tới mục tiêu BHXH toàn dân. Phát triển hệ thống BHXH linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững.

Thực hiện mục tiêu theo lộ trình 2021, 2025 và dự kiến đến 2030 sẽ có khoảng 60% lực lượng lao động tham gia BHXH, trong đó lao động khu vực phi chính thức khoảng 5%; 45% số NLĐ tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), 60% số người cao tuổi được hưởng lương hưu, BHXH hằng tháng, trợ cấp hưu trí xã hội.

Quan điểm chỉ đạo nêu trên thể hiện tầm nhìn chiến lược có tính xuyên suốt đối với việc phát triển BHXH trong hệ thống chính sách xã hội nhằm bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển bền vững đất nước, thể hiện tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, trong thực tiễn công tác BHXH vẫn còn một số hạn chế, bất cập đã được đề cập, phân tích, làm rõ trong Nghị quyết số 28-NQ/TW cụ thể như sau:

Một là, việc mở rộng và phát triển đối tượng tham gia BHXH còn thấp, tỷ lệ bao phủ BHXH chậm, số người hưởng BHXH một lần tăng nhanh. Hiện nay, có 13,9 triệu người (chiếm 29% lực lượng lao động trong độ tuổi) tham gia BHXH, vẫn còn hơn 34 triệu người trong độ tuổi lao động (chiếm khoảng 71%) chưa tham gia BHXH; số người tham gia BHXH tự nguyện sau 10 năm triển khai mới chỉ đạt gần 300 nghìn người. Nếu không có sự chuyển đổi, trong thời gian tới, số lượng người già, người khi hết tuổi lao động không được hưởng BHXH là rất lớn, tạo áp lực, gánh nặng cho gia đình, xã hội, tác động tiêu cực đến chính sách ASXH.

Hai là, các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, tình trạng trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi BHXH ở địa phương, doanh nghiệp (DN) diễn biến phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của NLĐ, làm giảm niềm tin của NLĐ đối với chính sách BHXH của Đảng, Nhà nước. Tính đến hết năm 2017, vẫn còn khoảng 380.000 DN, chủ yếu là DN nhỏ và siêu nhỏ (chiếm 63,5% số DN đang hoạt động) chưa tham gia BHXH; khoảng 3,41 triệu người thuộc diện nhưng chưa tham gia BHXH bắt buộc. Tổng số nợ BHXH bắt buộc có tính lãi đến ngày 31/12/2017 là 5.737 tỷ đồng, chiếm 2,9% số phải thu BHXH.

Ba là, Quỹ Hưu trí và tử tuất có nguy cơ mất cân đối trong dài hạn, tình trạng chênh lệch thu - chi cần có biện pháp giải quyết; tỷ lệ hưởng lương hưu cao, tối đa 75%; quá trình già hóa dân số, tuổi nghỉ hưu sớm trong điều kiện tuổi thọ ngày càng tăng dẫn đến mất cân đối giữa đóng - hưởng, tạo gánh nặng lớn cho Quỹ BHXH. Điều kiện hưởng hưu trí với tối thiểu 20 năm đóng BHXH (trong khi ở nhiều nước chỉ là 10 năm hoặc 15 năm); việc NLĐ hoạt động trong lĩnh vực kinh tế ngoài nhà nước mất việc làm khi chưa đến tuổi nghỉ hưu (từ 35 - 40 tuổi) do các DN nước ngoài, tư nhân có xu hướng sử dụng lao động trong độ tuổi có hiệu suất lao động cao nhất... dẫn đến nhiều trường hợp hưởng BHXH một lần vào cùng một thời điểm nhất định, gây áp lực thanh toán, chi trả rất lớn về tài chính của Quỹ BHXH.

Bốn là, hệ thống chính sách, pháp luật về BHXH mặc dù đã được quan tâm xây dựng, hoàn thiện, nhưng chưa theo kịp tình hình thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chưa tạo động lực, sức hút đối với NLĐ, nhất là lao động ngoài khu vực nhà nước tham gia BHXH... Từ kết quả công tác BHXH đã đạt được và những vấn đề đặt ra cho thấy, sự tham gia vào cuộc của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị, xã hội, DN và mỗi người dân đối với công tác BHXH là rất cần thiết và có tính tiên quyết. Đặc biệt là vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, sự vào cuộc của hệ thống chính trị các cấp giữ vị trí rất quan trọng.

Thực tiễn thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH cho thấy, sự quan tâm đặc biệt của Đảng đối với chính sách BHXH. Với mục tiêu hướng tới BHXH toàn dân, có thể khẳng định, đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho các bộ, ngành, các cấp ủy đảng, chính quyền nói chung và BHXH Việt Nam nói riêng trong việc tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật BHXH, cũng như cơ chế tổ chức thực hiện BHXH phù hợp với thực tiễn đất nước trong bối cảnh phát triển và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, trước những thách thức trong dịch chuyển lao động, thay đổi cơ cấu ngành - nghề, mối quan hệ lao động trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0…

Một số giải pháp

Để phát triển công tác BHXH, cần triển khai một số giải pháp sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông chính sách, pháp luật BHXH đến mọi NLĐ. Thực tiễn thực hiện chính sách BHXH cho thấy, chỉ khi nào người dân, NLĐ hiểu rõ tầm quan trọng, thấy được lợi ích của chính sách và chủ động tham gia BHXH thì sẽ thu được rất nhiều kết quả. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương trong công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH để cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thấy rõ hơn vai trò, ý nghĩa, lợi ích của việc tham gia BHXH, từ đó hình thành nhu cầu tự giác tham gia, ý thức chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về BHXH. Thực tế cho thấy, địa phương nào có sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt thì chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH đạt được đều rất cao; ngược lại, nếu chỉ tập trung vào một số nội dung hoặc thiếu đồng bộ thì kết quả còn nhiều hạn chế.  

Thứ hai, khẩn trương hoàn thiện sửa đổi, bổ sung pháp luật về BHXH theo hướng tiến tới thực hiện BHXH toàn dân; thiết kế hệ thống BHXH đa tầng; hoàn thiện các quy định về đóng - hưởng BHXH, bảo đảm các nguyên tắc công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững, nâng cao chất lượng, hiệu quả và chỉ số uy tín, minh bạch trong hoạt động BHXH với cơ quan, tổ chức, cá nhân. Từ những kết quả đạt được, cũng như hạn chế, thiếu sót và vướng mắc trong thực tiễn công tác BHXH, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế, BHXH Việt Nam và các cơ quan liên quan chủ động nghiên cứu xây dựng, kiến nghị để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về BHXH bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với chính sách, pháp luật về chế độ tiền lương, việc làm, chính sách đối với người có công với cách mạng và chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực có liên quan khác.

Thứ ba, nâng cao tính tuân thủ pháp luật về BHXH thông qua thực hiện đồng bộ các biện pháp hành chính, kinh tế, tư pháp để tăng số người tham gia BHXH, đi đôi với chú trọng tăng số người thụ hưởng quyền lợi BHXH, đặc biệt là chế độ hưu trí. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về BHXH, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm, nhất là các hành vi trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi tiền BHXH. Chủ động phát hiện, đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, phản động đối với việc xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về ASXH, trong đó có chính sách, pháp luật liên quan đến BHXH.

Thứ tư, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHTN. Công cuộc cải cách BHXH đòi hỏi phải nhanh chóng cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận tốt hơn các chính sách an sinh, thấy được lợi ích thực sự của chính sách BHXH đối với cuộc sống của mình, của gia đình mình và tự nguyện tham gia vào quá trình cải cách. Ngành BHXH cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên tất cả các lĩnh vực BHXH, BHTN; hoàn thiện, đẩy mạnh kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về BHXH với các hệ thống cơ sở dữ liệu có liên quan nhằm phục vụ tốt công tác thực hiện chính sách và công tác nghiên cứu, hoạch định chính sách. Tiếp tục hiện đại hóa quản lý BHXH, đầu tư phát triển công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến trong tổ chức thực hiện BHXH, BHTN…  

Tài liệu tham khảo:

  1. Vương Ðình Huệ, Cải cách chính sách BHXH góp phần bảo đảm ASXH, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển bền vững đất nước, chinhphu.vn;
  2. Nguyễn Văn Thành, Một số vấn đề đặt ra đối với công tác BHXH hiện nay, Tạp chí Cộng sản tháng 12/2018;
  3. BHXH Việt Nam, “Ðổi mới và phát triển BHXH ở Việt Nam”, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2015, tr. 2;
  4. “Cần sớm cải cách tổng thể chính sách BHXH”, Báo Nhân dân số ngày 1/4/2018;
  5. Ban Tuyên giáo Trung ương: “Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa XII (dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên)”, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2018, tr. 295, 296.