Gian lận thuế trong khu thương mại: Hàng trăm tỷ đồng

Theo customs.gov.vn

(Tài chính) Cục Hải quan Quảng Trị cho biết, trị giá hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào khu kinh tế - thương mại Lao Bảo không ngừng tăng mỗi năm. Với tổng kim ngạch năm 2012 là hơn 3.000 tỷ đồng, số tiền thuế giá trị gia tăng (GTGT) phải hoàn lại cho doanh nghiệp (DN) tương ứng là hàng trăm tỷ đồng. Tuy nhiên, việc gian lận hoàn thuế GTGT trong khu vực này vô cùng nóng bỏng.

Gian lận thuế trong khu thương mại: Hàng trăm tỷ đồng
Hình ảnh cừa khẩu quốc tế Lao Bảo. Nguồn: internet

Nhiều ưu đãi – Nóng gian lận

Khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo (Khu KT-TM) được thành lập năm 1998. Theo quy định của Chính phủ, quan hệ trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa Khu KT-TM Lao Bảo với thị trường trong nước là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu (XK, NK). Hàng hóa khi được đưa vào Khu KT-TM Lao Bảo là hàng XK.

Thủ tướng cũng quy định hàng hóa, dịch vụ từ nội địa Việt Nam đưa vào Khu KT-TM Lao Bảo hưởng thuế suất thuế GTGT 0% và hàng hóa có xuất xứ từ nội địa Việt Nam được miễn thuế XK.

Tờ khai hàng hóa xuất kinh doanh từ nội địa Việt Nam vào khu này thuộc loại hình được miễn thuế XK và có thuế suất thuế GTGT bằng 0%. Vì vậy, các hóa đơn bán hàng kèm theo các tờ khai XK này sẽ được các DN kê khai để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào.

Quy trình hoàn thuế được thực hiện theo quy định tại Luật thuế giá trị gia tăng số 13/2008/QH12 ngày 3/6/2008 và các văn bản hướng dẫn liên quan.

Số DN hoạt động XNK trên địa bàn Quảng Trị là 500. Trong đó, số lượng DN XNK thuộc địa bàn quản lý của đơn vị là 334. Trong số 334 DN thuộc tỉnh Quảng Trị, số lượng các DN hoạt động XNK vào Khu KT-TM Lao Bảo chiếm số lượng chủ yếu: 256.

Mặt hàng XK chủ yếu (hàng Việt Nam sản xuất) là: Bánh kẹo, cá hộp, cà phê bột, dầu ăn, sữa bột, sữa nước, xà phòng, sắt, thép, gạch men, ván ép, dây điện, thiết bị điện gia dụng, quạt điện, ti vi, son môi, nước hoa…

Tổng kim ngạch XK vào Khu KT-TM Lao Bảo năm 2010 là 1.723 tỷ VND, năm 2011 là 2.152 tỷ VND và năm 2012 là 3.286 tỷ VND.

Với trị giá hàng hóa Việt Nam XK vào Khu KT-TM Lao Bảo hàng năm rất lớn và không ngừng tăng qua các năm như số liệu trên, số thuế nhà nước phải hoàn lại 10% cho DN tương ứng là hàng trăm tỷ đồng.

Thời gian qua, tại các hội nghị đối thoại DN do Cục Hải quan Quảng Trị tổ chức, một số DN đầu mối phân phối hàng hóa Việt Nam đã đề nghị không hoàn thuế với chính những mặt hàng họ phân phối. Lí do là hàng hóa đã bị nhiều DN XK vào Khu KT-TM Lao Bảo, hoàn thuế GTGT rồi quay vòng về nội địa, hạ giá bán, gây rối loạn giá cả thị trường, cạnh tranh bất bình đẳng.

Theo số liệu của Cục Thuế Quảng Trị, số tiền hoàn thuế GTGT trong 8 năm qua đã tăng gần 30 lần. Năm 2005 - năm đầu tiên thực hiện chính sách hoàn thuế - NSNN mới chi 11,1 tỷ đồng thì đến năm 2010 số tiền hoàn thuế tăng lên 109,5 tỷ đồng và năm 2012 chạm mức 300 tỷ đồng.

Cục Hải quan Quảng Trị cho biết, nếu những con số trên là thực thì rất đáng mừng. Nhưng khi làm bài toán chia đầu người thì thật bất ngờ bởi người dân Lao Bảo phải tiêu thụ khủng khiếp.

Cụ thể, tiêu thụ 2.056 tấn bánh kẹo, trị giá 138 tỷ đồng (trung bình 1 người dân Lao Bảo ăn 46 kg bánh kẹo/năm), cà phê bột: 2.388 tấn, trị giá 132 tỷ đồng (1 người uống 1 lạng/ngày), sữa nước 10,9 triệu lít, trị giá 225 tỷ đồng (1 người uống 0,7 lít/ngày)…

Từ những vấn đề nêu trên, công tác đấu tranh chống gian lận hoàn thuế GTGT đối với DN kinh doanh XK hàng hóa vào Khu KT-TM Lao Bảo trở thành vấn đề nóng bỏng.

Kết quả bước đầu qua công tác KTSTQQ

Từ tháng 7/2012, lực lượng KTSTQ Quảng Trị bắt đầu triển khai kiểm tra đối với các DN XK hàng từ nội địa vào khu thương mại. Cụ thể, từ tháng 7/2012 đến 15/5/2013 đã thực hiện kiểm tra 41 DN, trong đó kiểm tra tại trụ sở 12 DN và tại cơ quan hải quan là 29 DN. Phát hiện vi phạm với 18/24 DN đã hoàn thành kiểm tra.

Qua kiểm tra phát hiện vi phạm chủ yếu là DN XK lớn hơn số lượng hàng hóa tồn kho. Thể hiện chênh lệch âm tại sổ chi tiết hàng hóa (sổ thể hiện quá tình xuất, nhập, tồn hàng hóa); chênh lệch âm do hạch toán sai ngày, sai số lượng, sai mặt hàng trên số chi tiết hàng hóa dẫn đến âm kho nếu đưa vào hạch toán đúng.

DN cũng có hiện tượng vi phạm khi thực hiện XK nhưng không hạch toán xuất kho hoặc xuất kho mặt hàng khác thay thế.

Qua quá trình thu thập thông tin, chứng cứ, yêu cầu DN giải trình, Chi cục KTSTQ - Cục Hải quan Quảng Trị kết luận, những trường hợp trên, hàng hóa XK không có hóa đơn chứng từ mua vào hoặc hóa đơn mua vào không đáp ứng quy định tại Nghị định 51/2010/NĐ-CP (hóa đơn mua vào được lập sau thời điểm XK hàng hóa). Do vậy, hóa đơn XK (kèm tờ khai XK) trong các trường hợp này không đáp ứng điều kiện để được khấu trừ thuế GTGT theo quy định.

Trường hợp DN kê khai hóa đơn XK đối với hàng hóa có hóa đơn GTGT mua vào không hợp lệ (hóa đơn lập sau thời điểm XK) để được khấu trừ hoàn thuế, kết luận là DN có hành vi khai sai dẫn đến xác định sai số thuế được hoàn.

Sau kết luận KTSTQ, Cục Hải quan Quảng Trị đã chuyển Cục Thuế tỉnh đề nghị xem xét, xử lý vi phạm theo thẩm quyền đối với 12 DN, tổng trị giá hàng hóa vi phạm hơn 4,7 tỷ đồng.

Từ các vụ việc, Cục Hải quan Quảng Trị đã rút ra kinh nghiệm trong KTSTQ. Đó là lượng hồ sơ, chứng từ lớn, liên quan đến nhiều mặt hàng XK, nên sau khi công chức hải quan tập hợp các vấn đề yêu cầu DN giải trình, thường phải dành thời gian để cùng DN kiểm tra, đối chiếu lại hóa đơn cũng như việc hạch toán mua bán hàng.

Hơn nữa, DN thường giải trình các lỗi xuất âm kho, XK không xuất kho là do nhầm lẫn, sai sót trong quá trình hạch toán, khai báo hải quan… Do vậy, công chức hải quan cần phải kiên trì, vừa tuyên truyền, giải thích về chế độ chính sách, tính tự khai báo, tự chịu trách nhiệm của DN trong quá trình XNK, vừa thu thập đủ chứng cứ để DN thấy rõ sai sót của mình.

Còn nhiều khó khăn

Quá trình thực hiện KTSTQ đối với DN xuất kinh doanh từ nội địa vào Khu KT-TM Lao Bảo thường được kiểm tra đối chiếu trên cơ sở hóa đơn mua vào, tờ khai XK, hóa đơn XK, sổ chi tiết mặt hàng và các chứng từ kế toán khác…

DN kinh doanh có kim ngạch lớn, từ vài chục đến vài trăm tỷ đồng, với hàng trăm mặt hàng nên số lượng hóa đơn, chứng từ sổ sách là rất lớn.

Khi yêu cầu DN cung cấp hồ sơ chứng từ, DN phải thực hiện in, sao chép, sao y… gây tốn kém về thời gian và kinh phí. Việc cung cấp hồ sơ vì vậy kéo dài, chậm trễ.

Sau khi kết thúc kiểm tra, việc chuyển hồ sơ cho cơ quan thuế, lưu hồ sơ KTSTQ cũng rất nhiều.

Trước thực tế đó, để tránh thất thu thuế với hàng hóa XK từ nội địa vào Khu KT-TM Lao Bảo, Cục Hải quan Quảng Trị kiến nghị ban hành danh mục những hàng hóa XK vào Khu được hoàn thuế, tập trung vào những mặt hàng trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng… trên cơ sở quy định của pháp luật và khả năng quản lý của ngành Hải quan, Thuế.

Với cơ quan Thuế, cần tăng cường kiểm tra trước, hoàn thuế sau. Phát huy hiệu quả trong công tác phối hợp thanh tra, kiểm tra thuế, KTSTQ, đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại. Đặc biệt việc kiểm tra hoàn thuế chú trọng kiểm tra XK hàng hóa đối chiếu với từng thời điểm để kiểm tra hóa đơn đầu vào.

Bên cạnh đó, quá trình thực hiện KTSTQ đối với các DN này, khi phát hiện vi phạm, Cục Hải quan Quảng Trị hoàn thiện hồ sơ và chuyển Cục Thuế tỉnh xử lý theo thẩm quyền, nên về số thu trong công tác KTSTQ của đơn vị là không phát sinh dù thực tế tốn rất nhiều thời gian và lực lượng để thực hiện.

Vì vậy, Cục Hải quan Quảng Trị đề nghị xem xét kết quả từ việc phát hiện số tiền để truy hoàn thuế GTGT vào số thu cho KTSTQ của đơn vị và có cơ chế phối hợp với cơ quan Thuế để trích lập quỹ từ công tác xử lý vi phạm cho cơ quan hải quan với những trường hợp cơ quan hải quan phát hiện vi phạm chuyển Cục Thuế xử lý.