Khẳng định hiệu quả trong hoạt động

Sau gần 8 năm hoạt động, với chức năng, nhiệm vụ được giao, SCIC đã thực hiện tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các DN thuộc đối tượng nhận bàn giao; tổ chức phân tích, đánh giá, phân loại DN thành các nhóm để áp dụng các biện pháp quản lý thích hợp; cơ cấu lại vốn của DN nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; thực hiện bán tiếp phần vốn nhà nước tại những DNNN không cần nắm giữ cổ phần, quy mô vốn nhỏ, hiệu quả kinh doanh thấp; lựa chọn và thực hiện đầu tư vào một số DN mang tính chiến lược, đồng thời từng bước thí điểm triển khai các hoạt động đầu tư các dự án mới vào các ngành, lĩnh vực quan trọng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Tính đến nay, SCIC đã thực hiện tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại hơn 950 DN; thực hiện tái cơ cấu lại các DN đã tiếp nhận, thực hiện thoái vốn (đã bán vốn nhà nước tại khoảng 600 DN với giá trị thu hồi đạt tỷ lệ trung bình gấp 2 lần so với giá trị sổ sách), bàn giao lại cho các bộ, địa phương và hiện đang thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại trên 350 DN cổ phần. Theo lộ trình đến năm 2015 dự kiến SCIC chỉ nắm giữ vốn tại khoảng 100 DN.

Với phương thức quản lý vốn theo cơ chế SCIC là đại diện chủ sở hữu, tình hình kinh doanh, hiệu quả hoạt động và tài chính của các DN được cải thiện; vốn nhà nước tại DN đã được quản lý tập trung và hiệu quả hơn. Thông qua việc nhận chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu, SCIC đã bước đầu thực hiện việc tách bạch chức năng quản lý hành chính nhà nước với quyền tự chủ kinh doanh của DN, chuyển hình thức quản lý vốn nhà nước sang hình thức đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước. Các bộ, địa phương tập trung vào thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với DN. Lợi ích của DN, lợi ích của cổ đông trong đó có cổ đông nhà nước và lợi ích của người lao động được giải quyết hài hoà.

Một số vấn đề mới cần quan tâm

Nghị định 151/2013/NĐ-CP quy định rõ các nhiệm vụ manh tính đặc thù mà SCIC phải thực hiện như: tiếp nhận và thực hiện quyền, nghĩa vụ chủ sở hữu Nhà nước đối với DN; tiếp tục thực hiện các hoạt động sắp xếp, cổ phần hoá, bán vốn nhà nước đầu tư tại DN được chuyển giao theo quy định hiện hành; đầu tư vốn vào các tập đoàn, tổng công ty, hoặc công ty mẹ hoạt động trong lĩnh vực, ngành nghề Nhà nước nắm giữ quyền chi phối; đầu tư vốn vào các dự án theo chỉ định của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.

Đây là những nhiệm vụ trọng yếu, SCIC cần tập trung nguồn lực để triển khai trong thời gian tới, góp phần thực hiện tốt chủ trương sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả DN và đổi mới phương thức quản lý tại các DN lớn mà Nhà nước cần tiếp tục giữ quyền chi phối.

Ngoài ra, Chính phủ cũng cho phép SCIC đầu tư và kinh doanh vốn vào ngành, lĩnh vực, dự án đem lại hiệu quả kinh tế; nhiệm vụ liên quan đến công tác quản lý Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển DN.

Để phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc đẩy mạnh sắp xếp, nâng cao hiệu quả DNNN, đổi mới phương thức quản lý vốn; tách dần chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại DN khỏi các bộ, UBND các tỉnh, thành phố thực hiện thông qua SCIC, Nghị định 151/2013/NĐ-CP quy định rõ đối tượng tiếp nhận theo hướng loại trừ các DN chủ yếu làm nhiệm vụ cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, phục vụ an ninh quốc phòng; bổ sung việc tiếp nhận vốn nhà nước tại các công ty liên doanh có vốn góp nhà nước do các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND tỉnh làm đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, cụ thể gồm:

- Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) nhà nước một thành viên được chuyển đổi từ công ty nhà nước độc lập hoặc mới thành lập trực thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh;

- Công ty TNHH hai thành viên trở lên được chuyển đổi từ các DN độc lập 100% vốn nhà nước hoặc mới thành lập trực thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh;

- Công ty liên doanh có vốn góp nhà nước do các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh làm đại diện chủ sở hữu;

- Công ty cổ phần được chuyển đổi từ các DN độc lập 100% vốn nhà nước hoặc mới thành lập trực thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh;

Để có căn cứ đánh giá, giám sát công tác quản lý vốn Nhà nước góp tại các DN được chuyển giao về SCIC quản lý, thực hiện một số cơ chế mang tính đặc thù như cơ chế trích thưởng thành tích bán vốn tại các DN tiếp nhận, Nghị định quy định thực hiện đánh giá lại vốn nhà nước khi SCIC nhận bàn giao theo nguyên tắc gắn với thị trường, có tính đến yếu tố rủi ro; còn số liệu phản ánh trên sổ sách kế toán của SCIC vẫn ghi theo giá trị vốn nhà nước được phản ánh theo giá sổ sách của DN nhận bàn giao.

Nghị định 151/2013/NĐ-CP ra đời với những quy định đổi mới về cơ chế hoạt động, tiếp tục khẳng định vai trò của SCIC trong việc đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước tại các DN; thực sự là công cụ, một kênh truyền vốn để Nhà nước chủ động trong việc thúc đẩy quá trình tái cấu trúc DN.
Việc xác định giá trị phần vốn nhà nước chuyển giao cho SCIC phải thực hiện trong vòng 30 ngày làm việc kể từ ngày SCIC ký nhận bàn giao vốn. Đối với phần vốn nhà nước nhận bàn giao trước ngày Nghị định này có hiệu lực, phải xác định trong vòng không quá 90 ngày làm việc kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực, thời điểm định giá là ngày Nghị định này có hiệu lực.

Nhằm khắc phục những bất cập trong cơ chế cũ, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý vốn nhà nước do SCIC tiếp nhận, Nghị định mới đã quy định về việc thực hiện quản lý vốn nhà nước thông qua hệ thống người đại diện, trong đó quy định quyền của SCIC trong việc lựa chọn hình thức cử, ủy quyền người đại diện; quyền và nghĩa vụ của người đại diện cũng như chính sách đối với người đại diện sau khi bán hết vốn nhà nước tại DN theo các hướng sau:

(i) nếu người đại diện là cán bộ SCIC thì SCIC thực hiện các chế độ lao động theo quy định của pháp luật lao động và quy định của SCIC;

(ii) nếu người đại diện là cán bộ DN thì SCIC thông báo thôi ủy quyền đại diện vốn cho DN biết để DN thực hiện các chế độ lao động theo quy định của pháp luật lao động và quy định của DN;

(iii) nếu Người đại diện trước khi chuyển giao là cán bộ do các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh cử kiêm nhiệm tại các DN thì SCIC phối hợp với các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh sắp xếp, giải quyết thực hiện các chế độ lao động theo quy định của pháp luật lao động và quy định của DN.

Để khắc phục những bất cập trong cơ chế trước đây và tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động bán vốn nhà nước tại các DN mà Nhà nước không cần duy trì vốn góp. Nghị định quy định rõ các nguyên tắc và cơ chế cho hoạt động bán vốn theo hướng bảo toàn, phát triển vốn; công khai minh bạch.

Đối với các DN chưa niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán, Nghị định quy định tổng công ty thực hiện bán vốn theo quy định hiện hành của Nhà nước và các quy định cụ thể như:

(i) Tổng công ty được đấu giá công khai một phần số cổ phần dự kiến bán, dành phần còn lại (tối đa bằng 70% số lượng cổ phần dự kiến bán) để bán thỏa thuận cho người lao động hoặc cho cổ đông chiến lược theo giá không thấp hơn giá đấu thành công thấp nhất.

(ii) Trường hợp bán đấu giá không thành công, SCIC quyết định điều chỉnh giảm giá khởi điểm để đấu giá bán tiếp. Việc giảm giá khởi điểm để đấu giá được thực hiện không quá 3 lần, thời gian giữa các lần điều chỉnh giákhông quá2 tháng. Mức giảm tối đa mỗi lần không quá 10% so với giá khởi điểm lần bán vốn trước đó.

(iii) Đối với các DN sản xuất kinh doanh thua lỗvà đã thực hiện đấu giá công khai nhưng không có người mua cao hơn hoặc bằng mệnh giá thì tổng công ty được hạgiákhởi điểm thấp hơn mệnh giáđểđấu giábán nhằm thu hồi tối đa phần vốn nhà nước đã đầu tư tại doanh nghiệp.

(iv) Trường hợp bán đấu giá cổ phần có tổng giá trị theo mệnh giáthấp hơn 10 tỷđồng hoặc cổ phần ởcác DN kinh doanh thua lỗcómệnh giátừ 10 tỷđồng trở lên thì được thực hiện qua các công ty chứng khoán hoặc do SCIC tự tổ chức đấu giá.

Nghị định quy định rõ nguyên tắc đầu tư, hình thức đầu tư, thẩm quyền đầu tư, thu hồi vốn đầu tư. Đối với nguồn vốn kinh doanh của SCIC, SCIC được chủ động sử dụng để thực hiện đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề quan trọng mà Nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối theo tiêu chí, danh mục phân loại DN 100% vốn nhà nước được Thủ tướng Chính phủ quy định để thực hiện chức năng là nhà đầu tư của Chính phủ.

Tuy nhiên, để đảm bảo sự thống nhất trong cơ chế đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước và phân cấp thực hiện quyền của chủ sở hữu, Nghị định cũng quy định rõ SCIC phải báo cáo cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trước khi quyết định đầu tư các dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của các cấp theo pháp luật về đầu tư.

Đồng thời, Nghị định cũng xác định rõ nhiệm vụ chính của SCIC là ưu tiên đầu tư vào các tập đoàn, tổng công ty hoặc công ty mẹ trong mô hình công ty mẹ - công ty con hoạt động trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế mà Nhà nước cần nắm giữ quyền chi phối; Đầu tư theo chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ vào những lĩnh vực trọng yếu. Bên cạnh đó, để định hướng SCIC sử dụng vốn nhà nước đúng mục đích, có hiệu quả, Nghị định đã quy định SCIC phải dành tối thiểu 70% tổng mức vốn đầu tư theo kế hoạch hàng năm để thực hiện các nhiệm vụ đầu tư chính.

Về nguyên tắc, doanh thu, chi phí của SCIC cũng được xác định theo quy định về cơ chế tài chính của công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, văn bản hướng dẫn Luật Thuế thu nhập DN và các chuẩn mực kế toán. Tuy nhiên, do hoạt động của SCIC có nhiều nét đặc thù nên Nghị định đã quy định rõ thêm về doanh thu - chi phí hoạt động quản lý vốn tiếp nhận mang tính đặc thù như sau:

- Về tiền thu từ bán vốn nhà nước chuyển giao cho tổng công ty quản lý (kể cả tiền đặt cọc không phải trả lại cho nhà đầu tư) được phản ánh toàn bộ vào doanh thu. Tương ứng, chi phí được phản ánh theo giá trị vốn gốc tiếp nhận tại các DN và chi phí bán vốn.

- Doanh thu bao gồm cả lợi nhuận và cổ tức được chia từ phần vốn tiếp nhận. Tương ứng, chi phí cho hoạt động quản lý vốn tiếp nhận, trích các khoản dự phòng đối với khoản vốn tiếp nhận được thực hiện như các khoản đầu tư tài chính dài hạn, chi thù lao, thưởng và các khoản chi khác cho người đại diện.

Để quá trình tích tụ, tập trung vốn nhà nước vào các ngành, lĩnh vực quan trọng, củng cố tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thông qua mô hình SCIC, Nghị định quy định rõ lợi nhuận của SCIC sau khi bù đắp lỗ năm trước theo quy định của Luật thuế thu nhập DN, trích Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, nộp thuế thu nhập DN, phần còn lại được phân phối như sau:

(i) chia lãi cho các thành viên góp vốn liên kết theo quy định của hợp đồng (nếu có);

(ii) bù đắp khoản lỗ của các năm trước đã hết thời hạn được trừ vào lợi nhuận trước thuế thu nhập DN;

(iii) lợi nhuận còn lại, được phân phối như sau: trích lập quỹ thưởng viên chức quản lý SCIC, quỹ khen thưởng, phúc lợi theo quy định; trích lập quỹ thưởng thành tích bán vốn bằng 10% chênh lệch giữa tổng tiền thu bán vốn tiếp nhận trong năm với giá được xác định lại, chi phí bán và thuế thu nhập DN nhưng không quá 3 tháng lương thực hiện; phần lợi nhuận còn lại được chuyển toàn bộ vào quỹ đầu tư phát triển.

Nhằm nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm gắn với hiệu quả hoạt động quản lý, đầu tư, kinh doanh vốn, Nghị định quy định cơ chế tiền lương, quỹ lương đối với người lao động của SCIC được thực hiện theo quy định hiện hành của pháp luật; đơn giá tiền lương được xác định và ổn định trong 03 năm và Hội đồng thành viên SCIC xây dựng quy chế quản lý tiền lương, tiền thưởng và chi phí có tính chất lương trong SCIC theo quy định của pháp luật. SCIC được quyền chủ động trong việc sử dụng quỹ lương để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Ngoài quỹ lương chung của người lao động, SCIC được thí điểm thành lập quỹ lương người đại diện.

Tóm lại, Nghị định 151/2013/NĐ-CP ra đời với những quy định đổi mới cơ bản về cơ chế hoạt động của SCIC đã tiếp tục khẳng định vai trò của SCIC trong đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước tại các DN; Đây thực sự là công cụ, một kênh truyền vốn để Nhà nước chủ động trong việc thúc đẩy quá trình tái cấu trúc DN và đầu tư theo hướng tập trung hơn vào các ngành, lĩnh vực thật sự then chốt, trọng yếu của nền kinh tế;

Đồng thời, góp phần quản lý vốn và tài sản nhà nước và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Mặt khác, sự ra đời của Nghị định đã tạo một bước quan trọng trong việc tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho SCIC hoạt động hiệu quả trên cơ sở làm rõ địa vị pháp lý, hướng hoạt động để đạt được những kết quả kỳ vọng đề ra trong giai đoạn mới.

Hành lang pháp lý mới cho SCIC

ThS. NGUYỄN DUY LONG

(Tài chính) Triển khai thực hiện Kết luận số 78-KL/TW của Bộ Chính trị và để tiếp tục củng cố phát huy vai trò của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) trong quá trình đổi mới, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong thời gian tới, ngày 01/11/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 151/2013/NĐ-CP về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của SCIC... Đây là hành lang pháp lý quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (DN) và tạo động lực mới thúc đẩy tái cơ cấu DN…

Xem thêm

Video nổi bật