Thêm nhiều đổi mới trong quản lý, giám sát hàng xuất nhập khẩu

PV.

Tiếp tục những bước cải cách, tháo gỡ vướng mắc nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, đồng thời, đáp ứng các yêu cầu quản lý hải quan, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 39/2018/TT-BTC quy định, hướng dẫn nhiều nội dung. Trong đó, công tác quản lý, giám sát hàng hóa xuất nhập khẩu có nhiều đổi mới...

Nhiều quy định mới được BỘ Tài chính đưa ra nhằm mục tiêu điện tử hóa các thủ tục tại khâu giám sát, khâu mà từ trước tới nay đa số làm thủ tục theo phương thức thủ công
Nhiều quy định mới được BỘ Tài chính đưa ra nhằm mục tiêu điện tử hóa các thủ tục tại khâu giám sát, khâu mà từ trước tới nay đa số làm thủ tục theo phương thức thủ công

Bộ Tài chính quy định, việc lấy mẫu hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu nếu người khai hải quan có yêu cầu lấy mẫu sẽ thực hiện đề nghị của mình thông qua Hệ thống mà không cần phải đến cơ quan hải quan. Cơ quan hải quan sẽ tiếp nhận đề nghị thông báo chấp nhận việc lấy mẫu thông qua Hệ thống.

Trường hợp lấy mẫu phục vụ kiểm tra chuyên ngành và hàng hóa đang trong khu vực giám sát hải quan thì cơ quan hải quan bố trí lực lượng giám sát trên cơ sở áp dụng quản lý rủi ro.

So với Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015, tại Thông tư số 39/2018/TT-BTC, Bộ Tài chính đã cụ thể hơn đối với quy định đưa hàng về bảo quản, người khai hải quan cần chứng minh địa điểm bảo quản là các kho, bãi có địa chỉ rõ ràng, ngăn cách với khu vực xung quanh đảm bảo việc bảo quản nguyên trạng hàng hóa thông qua các chứng từ quy định cụ thể.

Quy định này nhằm đảm bảo thực hiện đúng quy định tại Nghị định số 08/2015/NĐ-CP và Nghị định số 59/2018/NĐ-CP. Các chứng từ chứng minh địa điểm bảo quản đáp ứng quy định chỉ phải thực hiện 1 lần khi Thông tư số 39/2018/TT-BTC có hiệu lực. Đồng thời, khi hàng hóa được đưa về đến địa điểm bảo quản, người khai hải quan sẽ thông báo cho cơ quan hải quan thông qua Hệ thống. Cơ quan hải quan sẽ thực hiện kiểm tra kho bảo quản và việc bảo quản nguyên trạng hàng hóa tại địa điểm bảo quản.

Hàng hóa vận chuyển chịu sự giám sát hải quan cũng được quy định cụ thể, rõ ràng hơn thông qua việc phân chia quy định thành hàng hóa thực hiện thủ tục hải quan theo hình thức vận chuyển độc lập, hàng hóa thực hiện thủ tục hải quan theo hình thức vận chuyển kết hợp và hàng hóa chịu sự giám sát hải quan nhưng không phải thực hiện thủ tục hải quan theo 2 hình thức trên.

Ví dụ, hàng hóa nhập khẩu vận chuyển từ cửa khẩu nhập đến cảng đích ghi trên vận đơn bằng đường biển, đường hàng không nhưng còn nguyên trạng, không dỡ xuống cảng, kho, bãi tại cửa khẩu nhập...

Các quy định về tờ khai vận chuyển độc lập cũng được quy định cụ thể, minh bạch hơn đối với thủ tục khai bổ sung và hủy tờ khai vận chuyển độc lập.

Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng bổ sung các quy định để làm rõ trách nhiệm của các doanh nghiệp kinh doanh cảng, kho, bãi, địa điểm về việc cung cấp thông tin cho cơ quan hải quan (thông tin về lượng hàng, thời điểm hàng vào (get in), hàng ra (get out), vị trí lưu giữ và các thay đổi trong quá trình lưu giữ…).

Trường hợp tại khu vực cảng, kho, bãi, địa điểm đã có kết nối Hệ thống thông tin với cơ quan Hải quan thì người khai chỉ cần liên hệ với doanh nghiệp kinh doanh cảng để vận chuyển hàng hóa qua khu vực giám sát trên cơ sở thông tin về các lô hàng đủ điều kiện qua khu vực giám sát đã được cơ quan hải quan cung cấp qua hệ thống.

Quy định này nhằm mục tiêu điện tử hóa các thủ tục tại khâu giám sát, khâu mà từ trước tới nay đa số làm thủ tục theo phương thức thủ công như hồ sơ giấy xuất trình tại văn phòng giám sát của cơ quan hải quan khi lấy hàng qua khu vực giám sát.

Với quy định này, người khai hải quan có thể trực tiếp làm việc với doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng để lấy hàng mà cần phải có xác nhận của cơ quan hải quan trên chứng từ giấy về việc hàng hóa đủ điều kiện qua khu vực giám sát.