Miễn giảm thuế thu nhập cá nhân đối với người mắc bệnh hiểm nghèo?

PV.

Nhằm tiếp tục hỗ trợ người nộp thuế, Cục Thuế TP. Hà Nội hướng dẫn khoản thu nhập không tính vào thu nhập chịu thuế thu nhập đối với cá nhân bị mắc bệnh hiểm nghèo.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Theo đó, về khoản hỗ trợ của người sử dụng lao động cho việc khám chữa bệnh hiểm nghèo cho bản thân người lao động và thân nhân của người lao động, tại Điểm g, Điều 2, Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/08/2013 của Bộ Tài chính có quy định không tính vào thu nhập chịu thuế đối với các khoản sau:
Thứ nhất, khoản hỗ trợ của người sử dụng lao động cho việc khám chữa bệnh hiểm nghèo cho bản thân người lao động và thân nhân của người lao động.
Thứ hai, thân nhân của người lao động trong trường hợp này bao gồm: con đẻ, con nuôi hợp pháp, con ngoài giá thú, con riêng của vợ hoặc chồng; vợ hoặc chồng; cha đẻ, mẹ đẻ; cha vợ, mẹ vợ (hoặc cha chồng, mẹ chồng); cha dượng, mẹ kế; cha nuôi, mẹ nuôi hợp pháp.
Thứ ba, mức hỗ trợ không tính vào thu nhập chịu thuế là số tiền thực tế chi trả theo chứng từ trả tiền viện phí nhưng tối đa không quá số tiền trả viện phí của người lao động và thân nhân người lao động sau khi đã trừ số tiền chi trả của tổ chức bảo hiểm.
Thứ tư, người sử dụng lao động chi tiền hỗ trợ có trách nhiệm: lưu giữ bản sao chứng từ trả tiền viện phí có xác nhận của người sử dụng lao động (trong trường hợp người lao động và thân nhân người lao động trả phần còn lại sau khi tổ chức bảo hiểm trả trực tiếp với cơ sở khám chữa bệnh) hoặc bản sao chứng từ trả viện phí; bản sao chứng từ chi bảo hiểm y tế có xác nhận của người sử dụng lao động (trong trường hợp người lao động và thân nhân người lao động trả toàn bộ viện phí, tổ chức bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người lao động và thân nhân người lao động) cùng với chứng từ chi tiền hỗ trợ cho người lao động và thân nhân người lao động mắc bệnh hiểm nghèo...”
Theo hướng dẫn nêu trên, đối với khoản hỗ trợ chi phí khám chữa bệnh hiểm nghèo cho người lao động thì số tiền của người sử dụng lao động đã hỗ trợ này không tính vào thu nhập chịu thuế TNCN của người lao động theo mức quy định tại Điểm g.1.2 Khoản 2 Điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/08/2013 của Bộ Tài chính.
Về mức độ miễn giảm đối với số tiền hỗ trợ người lao động khi mắc bệnh hiểm nghèo theo quy định nêu trên được hướng dẫn tại Khoản 1 Điều 4 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/08/2013 của Bộ Tài chính như sau:
Về xác định số thuế được giảm: Việc xét giảm thuế được thực hiện theo năm tính thuế. Người nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh hiểm nghèo trong năm tính thuế nào thì được xét giảm số thuế phải nộp của năm tính thuế đó.
Đồng thời, Số thuế giảm được xác định như sau: Trường hợp số thuế phải nộp trong năm tính thuế lớn hơn mức độ thiệt hại thì số thuế giảm bằng mức độ thiệt hại; Trường hợp số thuế phải nộp trong năm tính thuế nhỏ hơn mức độ thiệt hại thì số thuế giảm bằng số thuế phải nộp.
Ngoài ra, về thủ tục, hồ sơ xét giảm thuế thực hiện theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế.”
Như vậy, theo Cục thuế TP. Hà Nội thì khoản hỗ trợ của người sử dụng lao động cho người lao động bị bệnh hiểm nghèo khi được miễn giảm thì số tiền thuế TNCN của người lao động này được giảm dựa trên số tiền chi phí khám chữa bệnh thực tế trong năm tính thuế trừ đi số tiền được bảo hiểm chi trả và số tiền được người sử dụng lao động hỗ trợ.