Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh nghiệp niêm yết trên HOSE

TS. Nguyễn Hoàng Anh, Nguyễn Thị Tú - Đại học Kinh tế - Luật (Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh)

Thông qua việc đánh giá các yếu tố tác động đến chất lượng thu nhập các doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HOSE) giai đoạn từ 2012-2016, nghiên cứu chỉ ra rằng các doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, thanh khoản cao, quy mô nhỏ hay có tỷ lệ sở hữu nước ngoài cao sẽ có chất lượng thu nhập cao, trong khi các doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính cao hay có tỷ lệ đầu tư tài sản lớn sẽ có chất lượng thu nhập thấp. Bài viết đưa ra các khuyến nghị nhằm cải thiện và gia tăng chất lượng thu nhập các doanh nghiệp.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Lợi nhuận trong hoạt động của doanh nghiệp

Lợi nhuận là kết quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp (DN) và là chỉ tiêu nhận được nhiều sự quan tâm của những người sử dụng thông tin tài chính như nhà quản trị, nhà đầu tư (NĐT), các chủ nợ… Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét đến khía cạnh số lượng của lợi nhuận là chưa đầy đủ mà cần phải quan tâm đến chất lượng của khoản lợi nhuận đó.

Nghĩa là cần phải xem xét lợi nhuận được công ty công bố có tính bền vững, ổn định và xuất phát từ hoạt động kinh doanh của công ty, hay đó chỉ là những con số được làm đẹp bởi những thủ thuật kế toán.

Ở Việt Nam, lý do thúc đẩy hành động điều chỉnh lợi nhuận là tối thiểu hóa chi phí thuế thu nhập DN, tạo hình ảnh tốt công ty để thu hút đầu tư từ bên ngoài... Do đó, khi có cơ hội các nhà quản trị sẽ thực hiện hành động điều chỉnh lợi nhuận theo ý muốn chủ quan của họ.

Hành động này sẽ phần nào làm cho các đối tượng sử dụng thông tin đánh giá sai lệch kết quả hoạt động kinh doanh của DN và từ đó đưa ra quyết định sai lầm. Do vậy, việc nghiên cứu chất lượng lợi nhuận và các yếu tố tác động nhằm có biện pháp nhận dạng DN nào có chất lượng thu nhập tốt, yếu tố nào tác động tích cực, tiêu cực để có quyết định trong quản trị hay đầu tư là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

Tổng quan và mô hình nghiên cứu

Khi nghiên cứu về tác động của cấu trúc nợ đến chất lượng thu nhập của DN, Dương Nguyễn Thanh Tâm (2013) nhận thấy có sự tác động của cấu trúc nợ đến chất lượng thu nhập của DN. Lê Quang Minh (2013) khi xem xét đến chất lượng thu nhập của các DN niêm yết ở Việt Nam giai đoạn 2007-2012 cho rằng, có đủ căn cứ để tin rằng, thành phần tiền có tính chất bền vững hơn thành phần dồn tích.

Phạm Thị Bích Vân (2013) đã chỉ ra các cách khác nhau để đo lường sự trung thực của các chỉ tiêu lợi nhuận, nhờ đó các nhà quản trị DN có thể đưa ra những quyết định về mặt kinh tế một cách phù hợp.

Về cơ cấu cổ đông và thu nhập, nghiên cứu của Lee và cộng sự (2007) nhận thấy, phương pháp quản trị thu nhập giảm trong các công ty có tỷ lệ các thành viên độc lập của Hội đồng quản trị cao hơn.

Yo Han An và Tony Naughton (2006) nghiên cứu về ảnh hưởng của sở hữu gia đình đến giá trị DN và chất lượng thu nhập của các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Hàn Quốc trong giai đoạn khủng hoảng từ 2000 - 2005. Kết quả chỉ ra rằng, sở hữu gia đình có thể làm giảm hoặc làm trầm trọng thêm vấn đề đại diện. Những đặc điểm riêng biệt của sở hữu gia đình có thể ảnh hưởng đến giá trị công ty và chất lượng thu nhập...

Haghighat và Homayoun (2004) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa dồn tích và thu nhập cho kết luận rằng, có một mối quan hệ có ý nghĩa về mặt thống kê tích cực giữa chất lượng của dồn tích và các yếu tố sau: Quy mô của các công ty, thu nhập, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh và bán hàng.

Francis và cộng sự (2002) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa chất lượng thu nhập, chi phí nợ và chi phí vốn chủ sở hữu. Họ tìm thấy một mối quan hệ nghịch đảo giữa chất lượng thu nhập và chi phí, khi mà các công ty có chất lượng thu nhập thấp có tỷ lệ nợ và chi phí cho cổ phiếu phổ thông cao.

Dựa vào lý thuyết và tổng hợp các nghiên cứu trước, mô hình nghiên cứu được đề xuất như sau:

EQ it = α + β1Family it+ β2Foreign it + β3 Sizeit + β4Lev it + β5 D/Eit + β6GROWTH it + β7PPE it + β8 LIQD it +  ε

Trong đó:

EQ1 đo bằng tỷ lệ giữa dòng tiền từ hoạt động kinh doanh và lợi nhuận sau thuế (Penman, 2001). Dòng tiền hoạt động (OCF) là một chỉ số đo lường mức lợi nhuận của một công ty tốt hơn thu nhập vì một công ty có thể cung cấp số liệu dương về thu nhập trên các báo cáo tài chính nhưng có thể vẫn không có khả năng trả nợ.

Nếu công ty thông báo số liệu về thu nhập đạt mức cao kỷ lục nhưng lại có nguồn tiền âm, điều đó chứng tỏ công ty này đang gặp vấn đề với dòng tiền và công ty này đã sử dụng các thủ thuật kế toán nhằm đánh bóng hình ảnh của công ty. Tỷ số này càng nhỏ thì độ trung thực của lợi nhuận càng cao.

EQ1 = OCF/ EAT = (EBIT + Khấu Hao – Thuế)/ Lợi nhuận sau thuế                     

Trong đó: EQ1: Chất lượng thu nhập; OCF: Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh; EAT: Lợi nhuận sau thuế.

Biến độc lập:

- Tỷ lệ sở hữu gia đình (Family): Tỷ lệ này được tính bằng cách lấy số cổ phiếu do các thành viên gia đình nắm giữ chia cho tổng số cổ phiếu đang lưu hành của công ty. Theo quan điểm của lý thuyết đại diện, chủ sở hữu gia đình có một động lực giám sát mạnh mẽ để giữ của cải vì họ là những NĐT dài hạn. Sự giám sát chặt chẽ này giúp cho giảm bớt hành vi cơ hội của nhà quản lý, giảm quản lý thu nhập.

- Sở hữu nước ngoài: Là tỷ lệ nắm giữ cổ phần của tất cả các cổ đông nước ngoài tính đến cuối năm và được tính bằng tổng số cổ phần do cổ đông nước ngoài nắm giữ chia cho tổng số cổ phần đang lưu hành. Theo lý thuyết tín hiệu, công ty có quyền sở hữu vốn của nước ngoài càng cao thì chất lượng thu nhập càng thấp vì công ty có xu hướng điều chỉnh giảm lợi nhuận để có thể đóng thuế thấp hơn.

- Quy mô DN (Size): Quy mô DN được thể hiện là logarit của Tổng tài sản. Việc sử dụng biến này để kiểm tra liệu chất lượng thu nhập có bị ảnh hưởng bởi quy mô DN không.

- Đòn bẩy tài chính (LEV): Nhân tố này được đo lường bằng cách lấy tổng nợ phải trả chia cho tổng tài sản của DN. Ngoài ra, đòn bẩy tài chính được đo lường thêm bằng chỉ tiêu D/E, được tính bằng cách lấy nợ dài hạn có trả lãi chia cho vốn chủ sở hữu. Hệ số này càng lớn thì các nhà quản lý càng có động cơ điều chỉnh thu nhập của công ty phù hợp với những quy ước trong hợp đồng vay.

- Tăng trưởng (GRW): Là tỷ lệ tăng trưởng doanh thu của công ty, được tính bằng tỷ lệ phần trăm thay đổi hàng năm doanh thu. Các công ty tăng trưởng cao thường được coi là những công ty có rủi ro và có khả năng thổi phồng lợi nhuận. Do vậy, tăng trưởng có khả năng sẽ làm giảm chất lượng thu nhập.

- Tỷ lệ đầu tư tài sản vốn (PPE): Được tính bằng giá trị còn lại của tài sản cố định hữu hình là nhà máy và máy móc thiết bị của công ty chia cho doanh thu. Các DN có tỷ lệ PPE cao có thể dễ dàng theo dõi hơn bởi các NĐT bên ngoài hơn các DN có tỷ lệ đầu tư tài sản vô hình cao. Điều này khuyến khích nhà quản lý điều chỉnh lợi nhuận phù hợp với yêu cầu của NĐT.

- Tỷ lệ thanh khoản (LIQD): Được đo bằng tổng tài sản ngắn hạn của công ty chia cho tổng nợ hiện tại. Các nghiên cứu của Cerf (1961), Singhvi và Desai (1971), Hossain (2001), Belkaoui và kahl (1978) cho thấy, khả năng thanh toán càng cao, DN càng tích cực công bố thông tin để chứng minh tình trạng hoạt động tốt của DN mình, nên chất lượng thu nhập càng cao

Dữ liệu phục vụ trong nghiên cứu này bao gồm các DN được niêm yết trong giai đoạn từ 2012 đến 2016 trên. Do có sự khác biệt trong cách hạch toán doanh thu, chi phí, để thống nhất cách đánh giá và phân tích tác giả chỉ chọn các DN phi tài chính làm mẫu nghiên cứu. DN tài chính hay phi tài chính được phân loại theo chuẩn GICS (Do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước áp dụng).

Kết quả nghiên cứu

Kết quả hồi quy theo các phân vị cho thấy:

- Biến sở hữu nước ngoài có tác động (-) đến chất lượng thu nhập, kết quả này ổn định qua các phương pháp và qua các phân vị khác nhau. Điều này cho thấy, tỷ lệ sở hữu nước ngoài tăng lên làm EQ1 giảm, nghĩa là tăng chất lượng thu nhập.

- Biến sở hữu gia đình với chất lượng thu nhập có mối tương quan âm qua các phương pháp trong trường hợp không dùng hồi quy phân vị, tuy nhiên kết quả hồi quy qua các phân vị khác nhau thì có sự khác nhau và đổi chiều. Kết quả cho thấy, chỉ ở các nhóm phân vị trên 75% thì sở hữu gia đình mới có tương quan âm, nghĩa là sở hữu gia đình cao thì chất lượng thu nhập được cải thiện đáng kể. 

- Biến quy mô đổi từ dấu (+) sang dấu (-) ở các phân vị từ 60% trở lên cho thấy, sở hữu với chất lượng thu nhập có quan hệ nghịch, nghĩa là quy mô càng cao thì chất lượng thu nhập càng được cải thiện. Kết quả này trái với kết quả nghiên cứu của Xie et al., (2003), Ayemere (2015), Case et al., (2015).

- Biến đòn bẩy tài chính chỉ có quan hệ (-) với chất lượng thu nhập ở ngưỡng phân vị 10%, trong khi ở các phân vị khác đều có mối tương quan (+) và có xu hướng tăng dần. Kết quả này khẳng định, khi đòn bẩy tài chính tăng sẽ làm giảm chất lượng thu nhập. 

- Biến thanh khoản có tương quan (-) ở hầu hết các phân vị và ổn định dấu ở hầu hết các phương pháp. Kết quả này cho thấy, thanh khoản tốt làm tăng chất lượng thu nhập. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Cerf (1961), Singhvi và Desai (1971), Hossain (2001), Belkaoui và kahl (1978).

Ở các mức phân vị về chất lượng thu nhập cao thì có mối tương quan (-) với tăng trưởng. Ngoại trừ ở mức phân vị 10%. Kết quả này hàm ý giữa tăng trưởng với chất lượng thu nhập có quan hệ thuận, các DN có chất lượng thu nhập cao ở các DN có tăng trưởng cao.

Kết luận và khuyến nghị

Sở hữu gia đình ở mức thấp (<10%) hay ở mức cao (>80%) giúp cải thiện chất lượng thu nhập trong phân tích định tính và định lượng. Như vậy, trong quản trị DN lưu ý việc sở hữu gia đình trong hai ngưỡng như vậy sẽ có lợi hơn trong quản trị nhất là về chất lượng thu nhập. Lâu nay, các NĐT cho rằng, công ty gia đình sẽ có những quyết sách mang tính gia đình trị, người ngoài khó can thiệp. Tuy nhiên, thông qua nghiên cứu này cho thấy, sở hữu gia đình chưa hẳn là xấu, chí ít là về quản trị nâng cao chất lượng thu nhập.

Hiện nay, mặc dù đã có quy định về mở “room” cho NĐT nước ngoài nhưng vẫn còn một số rào cản nhất định, nhất là rào cản hạn chế về ngành nghề kinh doanh có điều kiện vì trong giấy phép kinh doanh của các DN thường đăng ký rất nhiều ngành nghề kinh doanh.

DN có sử dụng đòn bẩy tài chính cao dễ dẫn đến việc điều chỉnh hay quản trị lợi nhuận, đánh bóng các báo cáo tài chính để làm gia tăng khả năng vay mượn nợ và thường có chất lượng thu nhập thấp. Do vậy, nếu đánh giá về chất lượng thu nhập để xem xét đầu tư, NĐT có thể ưu tiên vào các DN có đòn bẩy tài chính thấp hơn.

Kết quả cũng khẳng định, các DN có thanh khoản và tăng trưởng cao thường có chất lượng thu nhập tốt hơn. Như vậy, trong đánh giá, phân tích đầu tư, cần ưu tiên chọn các mã cổ phiếu có thanh khoản tốt và tăng trưởng cao.

Việc tăng tỷ lệ đầu tư cao có thể giúp gia tăng dòng tiền trong tương lai, tuy nhiên phát sinh rủi ro cũng như để tăng đầu tư, các DN cũng có xu hướng làm đẹp báo cáo và do đó dễ dẫn đến chất lượng thu nhập không tốt. Các DN cũng không nên đầu tư quá nhiều làm gia tăng rủi ro và giảm thanh khoản, giảm chất lượng thu nhập.  

Tài liệu tham khảo

1. Đặng Ngọc Hùng (2015), “Nghiên cứu xu hướng quản trị lợi nhuận do thay đổi thuế suất thuế thu nhập DN của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 219, tr.46-54;

2. Phạm Thị Bích Vân (2014), “Các hình thức quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, Tạp chí Kế toán và Kiểm toán, số 1+2/2014, tr. 57-60;

3. Gregory D Lyimo (2014), “Assessing The measures of quality of earnings: Evidence From India”, European Journal of Accounting Auditing and Finance Research, Vol.2, No.6, pp.17-28;

4. Liu, Jo-Lan, and Ching-Chieh Tsai (2015), “Board Member Characteristics and Ownership Structure Impacts on Real Earnings Management”, Accounting and Finance Research, 4(4);

5. Patricia Dechow a, WeiliGe b, CatherineSchrand (2010), “Understanding earnings quality: A review of the proxies, their determinants and their consequences”, Journal of Accounting and Economics, 50, pp 344-401.