Sau một năm thực hiện Nghị định 24: Thị trường vàng từng bước đi vào quỹ đạo

Theo Nhân dân ĐIện tử

Thị trường vàng trong nước từng bước đi vào quỹ đạo mới, vai trò quản lý của Nhà nước được nâng cao để ổn định và phát triển thị trường vàng theo hướng hạn chế tình trạng đầu cơ và tiến tới xóa bỏ tình trạng "vàng hóa" nền kinh tế...

 Sau một năm thực hiện Nghị định 24: Thị trường vàng từng bước đi vào quỹ đạo
Khách hàng mua, bán vàng trên phố Trần Nhân Tông (Hà Nội). Nguồn: Nhandan.com.vn

Thị  trường  vàng  trong nước  giai đoạn 2009 - 2011

Từ năm 1999, hoạt động kinh doanh vàng được thực hiện theo quy định tại Nghị định 174/1999/NÐ-CP ngày 9/12/1999 của Chính phủ (Nghị định 174). Nghị định này góp phần tạo lập cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh vàng của các doanh nghiệp cũng như hoạt động quản lý của các bộ, ngành liên quan. Tuy nhiên, việc giá vàng thế giới tăng mạnh, tới 300% kể từ năm 2008 đến năm 2011 cùng với những bất ổn kinh tế vĩ mô đã làm gia tăng hoạt động đầu tư vào vàng, nhất là vàng miếng. Nghị định 174 không có các quy định quản lý, kiểm soát hoạt động kinh doanh mua bán vàng miếng, vàng miếng được coi là hàng hóa thông thường.

Việc cho phép sản xuất, kinh doanh mua, bán vàng miếng trên diện rộng đã gây nên các tác động tiêu cực, nhất là trong thời điểm giá vàng biến động mạnh. Các đối tượng có hành vi làm giá, đầu cơ gây khan hiếm cung giả tạo, đồng thời tung tin đồn gây nên các "cơn sốt vàng" làm cho người dân tập trung đi mua vàng. Khi giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới, ngay lập tức xuất hiện tình trạng thu gom ngoại tệ trên thị trường tự do để nhập lậu vàng nguyên liệu, sản xuất vàng miếng từ nguồn vàng nhập lậu, từ đó gây ảnh hưởng bất lợi tới tỷ giá, thị trường ngoại tệ, đẩy mặt bằng giá hàng hóa nhập khẩu lên cao làm gia tăng lạm phát trong nền kinh tế và gây bất ổn kinh tế vĩ mô.

Trong Báo cáo Kinh tế Việt Nam 2011 dự báo 2012 của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) công bố tháng 5-2012 đã nêu thực trạng giai đoạn năm 2009 và 2010. Theo CIEM, thời kỳ này ở Việt Nam đã chứng kiến những "cơn sốt" giá vàng, nhất là thời điểm tháng 7/8/2011, có ngày giá vàng thay đổi tới 42 lần (ngày 9/8/2011). Sự  hỗn  loạn  của  thị  trường  vàng  trong nước giai đoạn này không  chỉ  phản  ánh  động  thái  chung  thị trường thế giới,  mà  còn liên quan đến sự thao túng "làm giá" hay những chiêu gây nhiễu và tạo sóng của giới đầu cơ. Tuy giá vàng không nằm trong "rổ hàng hóa" tính CPI, nhưng sự tăng giá lại có ảnh hưởng trực tiếp đến CPI qua tác động tâm lý đến tăng giá nhiều loại mặt hàng khác.

Trong bối cảnh ảm đạm của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản, đồng USD bị mất giá, dòng vốn chảy vào thị trường vàng đã làm cho cầu vàng tăng cao, trong khi cung bị hạn chế do phụ thuộc vào hạn ngạch nhập vàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và tâm lý đầu cơ của nhà đầu tư. Cầu lớn hơn cung làm cho giá vàng trong nước tăng cao so với thế giới, trong khi vàng miếng chưa được quản lý, dẫn đến tình trạng buôn lậu vàng diễn ra ở diện rộng. Từ đó làm cầu ngoại tệ trên thị trường tự do tăng mạnh, đẩy tỷ giá thị trường tự do tăng theo. Các nhân tố này một mặt gây áp lực phá giá đồng nội tệ, mặt khác gây áp lực buộc NHNN cho phép nhập vàng. Cứ như vậy vòng xoáy vàng - ngoại tệ lặp đi lặp lại góp phần gây nên tình trạng bất ổn tăng cao.

Sắp xếp lại thị trường vàng miếng

Trước những diễn biến của thị trường vàng tác động khá mạnh theo hướng tiêu cực vào an ninh tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô, Chính phủ và NHNN đã có bước đi đột phá trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá những bất cập của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về quản lý thị trường vàng trong bối cảnh thay đổi của kinh tế thế giới, trong nước và biến động mạnh của giá vàng thế giới. Ngày 3/4/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định 24/2012/NÐ-CP (Nghị định 24) để thay thế Nghị định 174 với mục tiêu tổ chức, sắp xếp lại một cách cơ bản thị trường vàng miếng, bảo đảm  khả năng điều tiết, nâng cao vai trò quản lý thị trường của Nhà nước ở mức cao nhất thông qua việc giao NHNN cấp phép đối với hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng; tổ chức sản xuất vàng miếng và xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, tổ chức mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước.

Ðối với hoạt động sản xuất vàng miếng, trước đây có tám doanh nghiệp và tổ chức tín dụng (TCTD) kinh doanh vàng được NHNN cấp phép sản xuất vàng miếng. Hoạt động sản xuất vàng miếng của các doanh nghiệp và TCTD đã tạo ra lượng vàng miếng cần thiết đáp ứng nhu cầu mua bán của thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế đã xảy ra tình trạng khi nhu cầu mua, bán vàng miếng của thị trường tăng cao, có hiện tượng liên kết để làm giá, đầu cơ trên thị trường.

Từ khi Nghị định 24 được ban hành, chỉ có NHNN được phép sản xuất vàng miếng và không có tổ chức, cá nhân nào được quyền sản xuất mặt hàng này. Do đó, hoạt động sản xuất vàng miếng được quản lý chặt chẽ, ngăn chặn việc nhập lậu vàng.

Ðối với hoạt động mua, bán vàng miếng, trước đây có khoảng 12 nghìn doanh nghiệp và cửa hàng kinh doanh vàng kinh doanh mua, bán vàng miếng dẫn đến vàng miếng dần trở thành phương tiện thanh toán, khó quản lý. Từ khi Nghị định 24 được ban hành, các tổ chức và cá nhân chỉ được mua bán vàng miếng tại các TCTD và doanh nghiệp đủ điều kiện được NHNN cấp phép kinh doanh mua bán vàng miếng. Do đó uy tín của các địa điểm, cửa hàng kinh doanh vàng, chất lượng vàng miếng và quyền lợi của người dân được bảo đảm tốt hơn. 

Trước đây, các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng được cấp phép thực hiện hoạt động xuất khẩu vàng nguyên liệu, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. Nhằm nâng cao vai trò quản lý, kiểm soát lượng vàng nguyên liệu cũng như điều tiết cung cầu trên thị trường, hạn chế tình trạng xuất lậu vàng nguyên liệu, nhập lậu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng và tránh tình trạng đầu cơ, lũng đoạn thị trường, Nghị định 24 quy định NHNN tổ chức xuất khẩu vàng nguyên liệu, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng.

Bảo đảm quyền lợi của người dân thông qua can thiệp bình ổn thị trường

Thời gian qua, NHNN đã nỗ lực áp dụng các biện pháp đồng bộ, phù hợp thực tiễn để triển khai Nghị định 24. Ðể bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người dân được mua, bán vàng miếng trên thị trường có tổ chức, NHNN đã cấp phép cho các TCTD, doanh nghiệp có đủ điều kiện để tổ chức mạng lưới kinh doanh mua bán vàng miếng. Qua hơn ba tháng thực hiện mua bán vàng miếng qua mạng lưới mới do NHNN cấp phép, hoạt động mua bán vàng miếng dần dần được ổn định, quyền lợi hợp pháp của người dân được bảo đảm tốt hơn. 

Theo Nghị định 24 và các quy định khác của pháp luật, không có quy định nào bắt buộc phải chuyển đổi các loại vàng miếng khác sang vàng miếng SJC. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi vàng miếng khác SJC sang vàng miếng SJC của người dân, TCTD và doanh nghiệp; NHNN đã ban hành quy định chặt chẽ để thực hiện việc chuyển đổi vàng miếng thương hiệu khác sang vàng miếng SJC.

Ðể đẩy nhanh tiến độ kiểm định, chuyển đổi vàng, NHNN thực hiện việc tạm xuất vàng miếng phi SJC và tái nhập vàng nguyên liệu tiêu chuẩn quốc tế với khối lượng xuất khẩu bằng khối lượng nhập khẩu theo đúng quy định của pháp luật. Toàn bộ khối lượng vàng phi SJC tạm xuất là vàng miếng đang được lưu thông hợp pháp trên thị trường và chủ yếu thuộc sở hữu hợp pháp của người dân đang gửi tại TCTD. Quy trình tạm xuất, tái nhập được NHNN tổ chức thực hiện, giám sát chặt chẽ, có kiểm tra tồn quỹ trước khi xuất khẩu. Việc tạm xuất, tái nhập đã hoàn thành vào ngày 31-3-2013.

Nhằm tạo lập cơ sở pháp lý cho hoạt động can thiệp bình ổn thị trường vàng theo Nghị định 24, nhất là đưa giá vàng trong nước sát hơn với giá vàng thế giới, từ ngày 28/3 đến 26/4, NHNN đã thực hiện 12 phiên đấu thầu bán vàng miếng với tổng khối lượng trúng thầu 12,78 tấn. Việc xác định mức giá sàn bán vàng miếng của NHNN bảo đảm yếu tố thị trường và tuân thủ quy định pháp luật về quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước. Mức giá sàn bán vàng miếng công bố trong các phiên đấu thầu là phù hợp và sát với giá vàng giao dịch thực tế trên thị trường trong nước. Các tổ chức trúng thầu bao gồm các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp được thiết lập quan hệ mua, bán vàng miếng với NHNN. Một phần vàng miếng đã mua từ đấu thầu được bán lẻ trên thị trường trong nước và một phần được sử dụng để giảm trạng thái vàng huy động đã sử dụng.

Kết quả bước đầu của các phiên đấu thầu vàng của NHNN thời gian qua đã tăng cung cho thị trường. Mục tiêu can thiệp bình ổn thị trường vàng của NHNN đang từng bước được thực hiện. Mặc dù vẫn còn chênh lệch khá cao giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới nhưng mức chênh lệch này không ảnh hưởng tới tỷ giá, thị trường ngoại tệ, nhất là không gây bất ổn kinh tế vĩ mô.

Lý giải cho sự chênh lệch giá này là do hiện còn một số TCTD vẫn phải tiếp tục mua vàng với khối lượng lớn để tất toán trạng thái âm vàng do đã sử dụng từ những năm trước, mặt khác sự giảm giá vàng của thị trường thế giới trong thời gian qua là quá mạnh (ghi nhận mức giảm mạnh nhất trong vòng hơn 20 năm qua...). Dự kiến sau khi các TCTD hoàn thành việc đóng trạng thái theo yêu cầu của NHNN, mức chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới sẽ dần được thu hẹp.

Qua một năm triển khai Nghị định 24, thị trường vàng trong nước từng bước đi vào quỹ đạo mới, vai trò quản lý của Nhà nước từng bước được nâng cao để ổn định và phát triển theo hướng hạn chế tình trạng đầu cơ và tiến tới xóa bỏ tình trạng "vàng hóa" nền kinh tế. Mặc dù vẫn còn hiện tượng chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới nhưng thị trường không còn hiện tượng "sốt vàng", không còn hiện tượng đổ xô nhập lậu vàng qua biên giới làm ảnh hưởng tới tỷ giá, thị trường ngoại tệ và bất ổn kinh tế vĩ mô.

Từ những kinh nghiệm trong công tác quản lý thị trường vàng thời gian qua, có thể nói, với thay đổi lớn về tình hình kinh tế thế giới và diễn biến kinh tế trong nước đặt ra thách thức đối với cơ quan quản lý Nhà nước trong giai đoạn hiện nay là cần xác định rõ và giải quyết tốt vai trò cũng như mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Trong đó, nổi lên ba vấn đề then chốt là hoàn thiện cơ sở pháp lý để sắp xếp lại và quản lý thị trường; áp dụng các biện pháp đồng bộ với lộ trình và bước đi thích hợp để bình ổn và phát triển thị trường. Vấn đề cuối cùng không kém phần quan trọng là cách thức và mức độ can thiệp của Nhà nước vào thị trường trong những thời điểm cần thiết.