Vai trò nguồn kiều hối trong phát triển kinh tế - xã hội

TS. Đinh Văn Hải

(Tài chính) Trong những năm gần đây, Việt Nam là một trong những quốc gia hút kiều hối lớn trên thế giới. Điều này có được là do Chính phủ Việt Nam cũng như các ngân hàng thương mại trong nước đã đưa ra nhiều chính sách khuyến khích thu hút Việt kiều ở nước ngoài chuyển, gửi tiền về nước đầu tư, làm ăn… Nguồn lực kiều hối đã và đang góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Trong những năm gần đây, Việt Nam là một trong những quốc gia hút kiều hối lớn trên thế giới. Nguồn: internet
Trong những năm gần đây, Việt Nam là một trong những quốc gia hút kiều hối lớn trên thế giới. Nguồn: internet
Kiều hối tăng mạnh

Kiều hối có vai trò rất quan trọng đối với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Đối với Việt Nam, kiều hối ngày càng trở nên quan trọng. Trong những năm gần đây, dòng kiều hối vào Việt Nam không ngừng gia tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối so với GDP, góp phần bù đắp thâm hụt cán cân thương mại, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của một bộ phận người dân nhận kiều hối.

Hiện có khoảng 4 triệu người Việt Nam sống, làm việc ở trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Với cộng đồng người Việt ở nước ngoài ngày càng tăng cũng đồng thuận với việc lượng kiều hối đổ vào Việt Nam năm sau cao hơn năm trước. Thống kê vừa được Ngân hàng thế giới (WB) công bố, năm 2013 Việt Nam lọt vào top 10 quốc gia được đón dòng sóng kiều hối, với lượng kiều hối đạt tới 11 tỷ USD - cao nhất từ trước đến nay.

Từ con số trên, nhìn lại khoảng thời gian giữa những năm 1980, với những thay đổi căn bản trong chính sách về kiều hối, Việt Nam đã tiếp nhận một lượng lớn dòng ngoại tệ từ các kiều bào ở nước ngoài. Tính trung bình, một người Việt Nam ở nước ngoài gửi về nước khoảng 1000 USD một năm. Những dòng vốn này thật sự đã có những tác động to lớn đối với các cá nhân nhận tiền nói riêng cũng như sự phát triển của đất nước nói chung. Từ đó cho tới nay, lượng kiều hối chuyển về Việt Nam luôn luôn tăng với tốc độ ngày càng cao. Năm 2000, lượng kiều hối gửi về là 1,75 tỷ USD, đến năm 2005, con số này đã tăng lên là 3,8 tỷ USD (tăng 117% so với năm 2000). Đến năm 2008, mặc dù khủng hoảng kinh tế toàn cầu xẩy ra, nhưng lượng kiều hối gửi về Việt Nam không những không bị suy giảm mà còn tăng vọt lên ở mức 7,2 tỷ USD. Năm 2010, với đà phục hồi của kinh tế thế giới, Việt Nam tiếp tục nhận được dòng kiều hối với giá trị 8 tỷ USD, tăng 1,7 tỷ so với năm 2009. Cũng trong năm này, Việt Nam được WB xếp vào vị trí 16/20 nước tiếp nhận nguồn kiều hối lớn nhất thế giới, đứng thứ 2 ở Đông Nam Á, sau Philippines. Năm 2012, Việt Nam đón nhận 9 tỷ USD, xếp thứ 7 sau Hy Lạp (18 tỷ USD), Pakistan và Bangladesh (14 tỷ USD). Năm 2011, kiều hối về Việt Nam ước đạt 9 tỷ USD, cao hơn nhiều so với 8 tỷ USD năm 2010.

Nguyên nhân khiến lượng kiều hồi đổ về Việt Nam tăng mạnh qua các năm là do lượng người Việt Nam ở nước ngoài khá đông và định cư tại nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thề giới; trong đó, lượng người đi lao động xuất khẩu chiếm tỷ lệ khá cao - đây là lực lượng chủ lực “kiếm tiền gửi về nước”. Bên cạnh đó, trong những năm qua, nhà nước có chủ trương khuyến khích kiều bào về nước đầu tư; cho phép gửi và nhận kiều hối bằng ngoại tệ, không bắt buộc phải gửi tiết kiệm vào ngân hàng hoặc bán cho ngân hàng. Mặt khác, dịch vụ chuyển tiền kiều hối qua kênh chính thức rất phát triển với sự tham gia của nhiều ngân hàng, doanh nghiệp với tính chất cạnh tranh rất cao.

Theo đánh giá của WB, kiều hối chuyển về Việt Nam chịu phí dịch vụ khá thấp, bằng 0,05% khoản tiền gửi và tối đa không quá 200 USD. Ngoài ra, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ ở Việt Nam cũng là yếu tố thu hút ngoại tệ gửi về.

Thực tế, thời gian gần đây đã có những hướng mở tích cực, góp phần khai thông lượng kiều hối về Việt Nam một cách dễ dàng và giúp người lao động tại nước ngoài yên tâm hơn khi gửi tiền về cho người thân. Cùng với các chương trình nhằm  thu hút kiều hối của các ngân hàng và doanh nghiệp, Chính phủ cũng có nhiều chính sách nhằm khuyến khích kiều bào gửi tiền về nước. Theo Văn bản hợp nhất về việc khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra mới đây, bắt đầu từ ngày 11/12/2013, người thụ hưởng kiều hối có thể nhận bằng tiền VND hoặc bằng ngoại tệ theo yêu cầu và không phải đóng thuế thu nhập đối với các khoản ngoại tệ từ nước ngoài chuyển về. Chính phủ cũng khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam ở nước ngoài có nhu cầu gửi tiền về nước được chuyển ngoại tệ về nước phù hợp với quy định. Người thụ hưởng có thể bán ngoại tệ cho các tổ chức tín dụng hay được phép chuyển khoản vào tài khoản tiền gửi ngoại tệ cá nhân…

Tiếp tục phát huy vai trò trong nền kinh tế

Trên thực tế, kiều hối là một trong những nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Nhờ kiều hối, Việt Nam có thêm nguồn thu ngoại tệ ổn định, tăng dự trữ ngoại hối quốc gia, giảm thiểu sự phụ thuộc nguồn vốn nước ngoài cũng như sức ép tỷ giá của đồng đôla Mỹ, góp phần cân đối trong cán cân thanh toán thương mại. Mặt khác, kiều hối giúp tạo thêm công ăn việc làm, ổn định đời sống cho người dân thông qua đầu tư, kinh doanh của Việt kiều, đồng thời góp phần cải thiện ngân sách cho nhà ở, y tế, giáo dục... Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, lượng kiều hối sẽ còn gia tăng hơn nữa trong tương lai khi kinh tế thế giới dần phục hồi.

Cùng với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), kiều hối chiếm tỷ trọng lớn nhất trong số các nguồn vốn từ bên ngoài vào Việt Nam và có xu hướng tăng lên qua các năm. Trong nhiều giai đoạn, giá trị của kiều hối còn tăng vượt so với vốn đầu tư trực tiếp FDI. So với các nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) thì kiều hối vào Việt Nam luôn có giá trị lớn hơn và luôn có tính ổn định cao hơn cả. Đặc tính này, kiều hối thể hiện rõ tính ưu việt trong kinh tế - xã hội Việt Nam, thể hiện cụ thể là:

Thứ nhất, nguồn thu ngoại tệ ổn định, không hoàn lại và đặc biệt kiều hối tạo ra nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế, không tạo gánh nặng nợ nước ngoài cho nền kinh tế. Nguồn vốn này giúp đất nước giảm thiểu nhiều rủi ro trong quá trình huy động vốn, giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài.

Thứ hai, hiện nay, xuất khẩu đang là lĩnh vực tạo ra nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Tuy nhiên, xuất khẩu hoặc du lịch phải đầu tư nhiều mới có được những khoản ngoại tệ nói trên trong khi đó thì nguồn thu kiều hối dường như không phải đầu tư, hoặc nếu có thì không đáng kể so với giá trị mà nó mang lại.

Thứ ba, Việt Nam được coi là quốc gia hấp dẫn nguồn vốn FDI và nguồn vốn này cũng tăng đều trong những năm gần đây, đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, thực tế nguồn vốn FDI cũng đã để lại nhiều tác động tiêu cực như gây ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội gia tăng và vốn của tư bản nước ngoài, nếu họ không xuất khẩu thì sẽ cạnh tranh với hàng hóa cùng loại sản xuất trong nước. Trong khi đó nguồn vốn kiều hối thì tránh được các mặt tiêu cực này. Còn đối với nguồn vốn ODA cũng là nguồn vốn quan trọng, nhưng 90% là vốn vay, nếu sử dụng không tốt sẽ tạo ra gánh nặng nợ nần cho các thế hệ sau. Trong khi đó, nguồn vốn kiều hối vừa không phải lo trả nợ vừa không đối mặt với một số tác động tiêu cực trên…

Thứ tư, kiều hối đóng góp cho công cuộc xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống người lao động. Nguồn vốn này chảy thẳng vào khu vực dân cư, do đó có tính thúc đẩy đầu tư tư nhân cao, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao mức thu nhập cho các chủ thể nhận kiều hối và các chủ thể được hưởng lợi từ nguồn đầu tư kiều hối.

Thứ năm, kiều hối có tác dụng hỗ trợ cán cân thanh toán quốc gia. Trong nhiều năm qua Việt Nam luôn phải đối mặt với nhập siêu. Tuy nhiên, do có nguồn kiều hối đổ về nước ngày một tăng nên đã giảm áp lực đáng kể cho tình trạng nhập siêu.

Thsáu, kiều hối đóng góp cho sự gia tăng tiết kiệm của quốc gia, được tính bằng giá trị tiền để lại không sử dụng cho mục đích tiêu dùng của những chủ thể nhận các dòng kiều hối. Phần tiết kiệm từ kiều hối có thể được sử dụng cho các hoạt động đầu tư trực tiếp, được gửi bằng ngoại tệ hoặc bản tệ vào các ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính khác, và một phần có thể được cất trữ dưới dạng tiền mặt, vàng… Ngoài phần kiều hối được dùng đầu tư trực tiếp, kiều hối được gửi vào các tổ chức tài chính sau đó lại được cho vay tài trợ cho các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế.

Thbảy, kiều hối đóng góp tích cực đến sự phát triển của thị trường tài chính vì những khoản tiền này làm tăng nguồn cung ứng vốn cho các tổ chức tài chính. Mối quan hệ giữa kiều hối, sự phát triển thị trường tài chính và tăng trưởng kinh tế có thể được xem xét ở một số cấp độ. Nhiều khả năng là tại các thị trường tài chính phát triển, hoạt động có hiệu quả, tác động của kiều hối được gia tăng do những dòng tiền này được sử dụng vào những mục đích có hiệu quả nhất, qua đó có tác động tích cực hơn đến tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, kiều hối có thể bù đắp cho những thị trường tài chính kém hiệu quả. Bởi lẽ, kiều hối có thể giúp các nhà đầu tư vượt qua được những hạn chế của thị trường tài chính về sự thiếu vắng các sản phẩm huy động và cấp tín dụng phù hợp để tìm kiếm được mức sinh lời cao. Trong những trường hợp này, kiều hối có tác động trực tiếp đến các hoạt động đầu tư và tăng trưởng kinh tế trong khi thị trường tài chính vẫn kém phát triển.

Bên cạnh những tác động tích cực, thực tế nguồn kiều hối khi đổ về Việt Nam cũng vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục. Cụ thể là, nguồn kiều hối chuyển về Việt Nam lại cũng chính là áp lực gia tăng tổng phương tiện thanh toán thông qua gia tăng tài sản có yếu tố nước ngoài ròng (NFA), gây khó khăn cho NHNN trong việc kiểm soát tiền tệ. Mặt khác, đây là nguồn kiều hối qua các kênh không chính thức sẽ không được thu hút hoàn toàn vào hệ thống ngân hàng dẫn đến một phần kiều hối bán ra chợ đen sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng đôla hóa trong nền kinh tế, NHNN khó kiểm soát được hoàn toàn thị trường ngoại hối. Ngoài ra, kiều hối đổ vào Việt Nam phần lớn là các hộ gia đình hưởng, đem tiêu dùng cũng làm tăng tổng cầu, có thể đã góp phần làm mất cung - cầu hàng hóa, khiến lạm phát dễ xảy ra.

Để hạn chế những tác động ngoài mong muốn, tận dụng tính ưu việt của nguồn kiều hối, bài viết xin đưa ra một số giải pháp sau:

Nhà nước cần thực thi các chính sách nhằm định hướng hoặc tạo động lực để kiều hối đầu tư vào khu vực sản xuất và các lĩnh vực con người như giáo dục và sức khỏe cộng đồng... nhằm tạo ra các hiệu ứng phát triển tích cực về dài hạn cho đất nước. Chẳng hạn, có thể nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của một số quốc gia về các chính sách hướng các dòng kiều hối vào các chương trình phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Tại Châu Mỹ, Quỹ đầu tư tương hỗ (MIF) thuộc Ngân hàng phát triển Châu Mỹ (IADB) đã liên kết với các ngân hàng của Brazil để thành lập các quỹ kiều hối cho các doanh nhân, thu hút các dòng kiều hối đầu tư vào những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tế tại các quốc gia cũng chỉ ra rằng, các chính sách không nên mang tính hình thức hoặc những can thiệp hành chính mà nên theo hướng tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi về cơ sở hạ tầng như giao thông, điện nước, viễn thông, cải cách thủ tục hành chính… sẽ có tác động tích cực hơn trong việc thu hút kiều hối vào các hoạt động đầu tư có hiệu quả. Bên cạnh đó, việc tạo lập một hạ tầng tài chính vững mạnh với các tổ chức tài chính hoạt động an toàn hiệu quả, cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thu hút và sử dụng có hiệu quả các dòng kiều hối.

Đối với chính sách tỷ giá, như đã phân tích ở trên, chính sách theo đuổi tỷ giá danh nghĩa cố định một mặt khiến chính sách tiền tệ trở nên kém hiệu lực, mặt khác làm trầm trọng thêm rủi ro tỷ giá. Việc duy trì tỷ giá danh nghĩa buộc chính sách tiền tệ phải chạy theo sự tăng giảm của dòng vốn nước ngoài, làm cho NHNN mất tự chủ trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Với chính sách tỷ giá linh hoạt hơn, khi các dòng vốn vào gia tăng, tỷ giá danh nghĩa giữa VND và USD có thể biến động theo chiều hướng tăng giá VND, giảm bớt áp lực gây lạm phát đồng thời củng cố niềm tin của công chúng đối với đồng bản tệ. Ngược lại, trong điều kiện hiện tại, khi VND đang có nguy cơ giảm giá, việc áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt hơn sẽ giảm bớt áp lực làm giảm dự trữ ngoại tệ do NHNN phải can thiệp thị trường. Thêm vào đó, chính sách tỷ giá linh hoạt hơn sẽ có tác dụng làm tăng tính độc lập và hiệu quả của chính sách tiền tệ trong việc ổn định giá cả đồng thời tạo điều kiện phát triển thị trường ngoại hối. Mặt khác, với chính sách tỷ giá linh hoạt hơn, tạo điều kiện cho tỷ giá có thể biến động sẽ tạo ra những thay đổi lên xuống giá trị đồng nội tệ và do đó có tác dụng hạn chế các dòng vốn vào ngắn hạn có tính đầu cơ, đồng thời sẽ làm cho các chủ thể kinh tế (các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các ngân hàng…) nhận thức đầy đủ hơn về nguy cơ rủi ro tỷ giá và thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro thích hợp.

Nếu như một lượng kiều hối lớn dành để đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho đất nước cũng sẽ một kênh đầu tư hiệu quả, có ích. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn này nếu muốn hướng nguồn tiền này vào sản xuất kinh doanh thì Nhà nước cũng nên có những chính sách ưu đãi cho kiều bào. Ngoài việc nới rộng những điều kiện mang tính thủ tục, cần phải làm rõ kiều bào sẽ được hưởng lợi ích gì? Khi các chính sách được thực thi cũng cần phải khảo sát, kiểm tra xem hiệu quả của các hoạt động bằng nguồn tiền này mang lại như thế nào nhằm tránh lợi dụng, tiêu cực. Mặt khác, kiều hối là nguồn tiền của dân nên việc quyết định đầu tư vào đâu là quyền của họ. Chính vì vậy, muốn hướng kiều bào đầu tư vào sản xuất kinh doanh hay những hoạt động khác mang lại lợi ích cho nền kinh tế đất nước thì Chính phủ Việt Nam cần có những chính sách tích cực để tạo niềm tin cho họ hay những người thụ hưởng nguồn tiền này. Mặt khác, Việt Nam cần phải tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, thay đổi môi trường đầu tư theo hướng tích cực, đặc biệt là hạn chế thay đổi đột ngột các quy định trong hoạt động đầu tư, nới lỏng các quy định, điều khoản, thủ tục hành chính.

Tài liệu tham khảo:

1.     Ngân hàng thế giới (WB): Triển vọng kiều hối toàn cầu năm 2013;

2.     Ngân hàng Thế giới (WB): Báo cáo Di cư và Phát triển năm 2013;

3.     TS. Nguyễn Thi Kim Thảo: Đánh giá tác động của kiều hối đối với kinh tế Việt Nam;

4.     Số liệu thống kê của Ủy ban Người Việt Nam ở nước ngoài (Bộ Ngoại giao) - http://www.mofa.gov.vn;  Ngân hàng: Vietcombank, Agribank, Vietinbank…