Ngân hàng với kịch bản ứng phó nợ xấu

Theo Nguyễn Vũ/thoibaonganhang.vn

Để có nguồn lực dự phòng xử lý nợ xấu, thời gian qua các ngân hàng đẩy mạnh trích lập dự phòng rủi ro. Nhờ đó hiện nhiều ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức rất lớn, thậm chí như Vietcombank, tỷ lệ này lên tới 182%. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng liên tục rao bán nhiều bất động sản có giá trị lớn để nhanh chóng thu hồi nợ.

DN gặp khó khăn ảnh hưởng tới khả năng trả nợ ngân hàng. Nguồn: internet
DN gặp khó khăn ảnh hưởng tới khả năng trả nợ ngân hàng. Nguồn: internet

Nợ xấu tăng do tác động của Covid-19

Đến thời điểm này, hầu hết các ngân hàng đều đã lên kịch bản đối phó với Covid-19, từ lạc quan đến tiêu cực. Tuy nhiên, ngay cả trong kịch bản lạc quan nhất của họ, nợ xấu vẫn sẽ gia tăng.

Tổng giám đốc một NHTMCP thừa nhận, dù trong kịch bản lạc quan nhất tính cả nợ được cơ cấu lại, giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 01 thì nợ xấu của ngân hàng này tăng ít nhất 0,5% trong năm nay. Còn với kịch bản xấu, tỷ lệ nợ xấu có thể tăng cao hơn. “Nợ xấu sẽ cao hơn nữa nếu không có cơ chế mở tại Thông tư 01. Nhưng việc giữ nguyên nhóm nợ đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch chỉ tạm thời hãm đà tăng của nợ xấu trong năm nay, nhưng lại đẩy rủi ro nợ xấu về tương lai”, vị này cho biết.

“Có thể nói tác động từ dịch bệnh Covid-19 có nguy cơ thổi bay nỗ lực xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng trong mấy năm qua”, Tổng giám đốc OCB Nguyễn Đình Tùng bày tỏ sự tiếc nuối. Đáng nói là khác với trước đây, lần này nợ xấu phát sinh cả từ các khách hàng tốt. Vì rủi ro khách quan với mức độ tác động rất lớn khiến cho cả khách hàng lẫn ngân hàng không thể chống đỡ được. “Đây là một loại rủi ro khách quan không đỡ được bằng quy trình nghiệp vụ ngân hàng. Dù hệ thống quản lý rủi ro vững vàng, nhưng đây là loại rủi ro đến từ dịch bệnh rất khó tính toán nên ngân hàng không tránh khỏi nợ xấu”, ông Tùng chia sẻ.

Không chỉ ngân hàng mà giới chuyên môn cũng bày tỏ sự tiếc nuối. Một thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia đánh giá, tiến trình xử lý nợ xấu của các ngân hàng đang diễn ra khá suôn sẻ khi kết thúc năm 2019, ngành Ngân hàng đã hoàn thành mục tiêu đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng xuống 1,89%, gộp cả nợ xấu tiềm ẩn, nợ bán cho VAMC khoảng 4,65%. Đầu năm 2020 toàn ngành Ngân hàng tự tin mục tiêu đưa tổng nợ xấu về dưới 3% vào cuối năm 2020 là hoàn toàn khả thi. Nhưng giờ, mục tiêu trên đang được coi là nhiệm vụ đầy khó khăn khi mà dịch Covid-19 đang ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều DN, khiến họ không có khả năng trả nợ đúng hạn, từ đó gia tăng tỷ lệ nợ quá hạn tại ngân hàng.

Theo ước tính của NHNN, với 2 kịch bản tăng trưởng kinh tế như Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra, trường hợp dịch được kiểm soát trong quý I, tỷ lệ nợ xấu bao gồm nội bảng, đã bán cho VAMC và nợ đã thực hiện các biện pháp phân loại nợ sẽ ở mức 2,9-3,2% đến cuối quý II và từ 2,6-3,0% đến cuối năm 2020.  Trường hợp dịch diễn biến phức tạp hơn và được kiểm soát trong quý II, tỷ lệ này sẽ ở mức gần 4% vào cuối quý II và 3,7% cuối năm 2020 và còn có thể cao hơn, dẫn tới ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu của các TCTD và khả năng phục hồi của các TCTD yếu kém.

Tìm nhiều cách xử lý nợ xấu

Theo đánh giá sơ bộ của NHNN, đến nay dư nợ dự kiến bị ảnh hưởng khoảng 2 triệu tỷ đồng, chiếm 23% dư nợ toàn hệ thống, tiềm ẩn rủi ro với hoạt động ngân hàng. Vậy các ngân hàng có kịch bản ra sao để xử lý nợ xấu cũng như hạn chế nợ xấu phát sinh?

Lãnh đạo một NHTMCP lớn cho biết, ngân hàng đang chủ động đưa ra nhiều giải pháp hỗ trợ, đồng hành với DN, như giảm lãi suất tối đa 2%/năm, giãn, hoãn nợ, cơ cấu lại nợ… kịp thời cho các DN nhất là DN bị sụt giảm từ 50% doanh thu trở lên để DN không rơi vào nhóm nợ xấu.  Không chỉ đối với các DN bị tác động mạnh từ dịch Covid-19, những DN dự báo dòng tiền trong tương lai bị sụt giảm, ngân hàng cũng sẽ cùng DN phân tích mức độ ảnh hưởng như thế nào để đưa ra các biện pháp hỗ trợ kịp thời nhằm giúp DN vẫn duy trì hoạt động, đảm bảo hiệu quả kinh doanh. “Mục đích của ngân hàng làm thế nào DN ổn định hoạt động kinh doanh một cách sớm nhất, dòng tiền DN cũng như ngân hàng không bị ảnh hưởng, hạn chế nợ xấu mới phát sinh”, vị lãnh đạo này cho biết thêm.

Tổng giám đốc VPBank Nguyễn Đức Vinh cũng cho biết, ngân hàng được tính toán từ sớm với nhiều kịch bản nợ xấu từ lạc quan đến bi quan. Theo tính toán của ngân hàng, sau khi tái cơ cấu các khoản nợ theo quy định tại Thông tư 01, nợ xấu tăng khoảng 0,5 - 1%, tùy từng kịch bản. Hiện tại, ngân hàng đã chuẩn bị đầy đủ cơ sở hạ tầng cần thiết để hỗ trợ khách hàng, tái cấu trúc khoản nợ một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. “Mục tiêu của VPBank là đảm bảo an toàn vốn, tài sản và ổn định nguồn thu cùng với việc triệt để tiết kiệm chi phí đảm bảo ngân hàng có đủ thanh khoản và sẵn sàng ứng phó với các rủi ro phát sinh”, ông Vinh nhấn mạnh.

Tổng giám đốc OCB Nguyễn Đình Tùng cũng khẳng định, ngoài tập trung giải pháp hỗ trợ DN, ngân hàng tập trung tiết giảm tối đa chi phí hoạt động đồng thời kiểm soát chặt quản trị rủi ro để hạn chế nợ xấu phát  sinh. “Mặc dù khả năng nợ xấu tăng tại ngân hàng là khó tránh khỏi, nhưng ngân hàng nào có độ phân tán danh mục cao, dự trữ thanh khoản tốt, năng lực tài chính tốt thì mức độ chịu ảnh hưởng thấp hơn”, ông Tùng cho biết.

Để có nguồn lực dự phòng xử lý nợ xấu, thời gian qua các ngân hàng đẩy mạnh trích lập dự phòng rủi ro. Nhờ đó hiện nhiều ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức rất lớn, thậm chí như Vietcombank, tỷ lệ này lên tới 182%. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng liên tục rao bán nhiều bất động sản có giá trị lớn để nhanh chóng thu hồi nợ.

Để đối phó với tình trạng nợ xấu tăng, chuyên gia ngân hàng khuyến nghị, các ngân hàng cần nghiêm túc trích lập dự phòng rủi ro, đồng thời phải siết chặt chất lượng tín dụng các khoản vay mới, tránh nợ xấu phát sinh thêm. Song, các chuyên gia kinh tế cũng lưu ý, nợ xấu là vấn đề của cả nền kinh tế, chứ không phải câu chuyện của riêng ngân hàng.

Hiện các ngân hàng đang thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng”, tiết giảm tối đa chi phí hoạt động, giảm chi lương, chi thưởng, không chia cổ tức tiền mặt… để hỗ trợ DN. Tuy nhiên, nguồn lực của các ngân hàng hiện nay là có hạn nên không thể “cứu” tất cả mọi DN. Vì vậy, giới chuyên môn đề nghị, bên cạnh chính sách hỗ trợ của các ngân hàng, chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác cũng cần nhanh chóng vào cuộc để tiếp sức cho DN vượt qua giai đoạn khó khăn này và bật dậy khi nền kinh tế hồi phục. DN khỏe sẽ hạn chế được nợ xấu mới phát sinh.