Yếu tố nào tác động đến nợ xấu toàn ngành ngân hàng năm 2022?

Cấn Văn Lực - Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV/diendandoanhnghiep.vn

Năm 2022, những yếu tố vĩ mô trên thế giới và Việt Nam tiếp tục có tác động lớn tới tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó tác động tới diễn biến nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD).

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Những yếu tố tác động đến nợ xấu

Những yếu tố được xem xét để dự báo nợ xấu toàn ngành ngân hàng trong năm 2022 bao gồm:

Về môi trường vĩ mô thế giới 2022: Hiện các tổ chức quốc tế dự báo kinh tế toàn cầu sẽ tiếp tục phục hồi, nhưng đà tăng sẽ chậm lại do các nước sẽ dần thắt chặt chính sách tài khoá, tiền tệ nhằm ứng phó lạm phát đang ở mức cao (khoảng 3,5% so với mức 3,2% năm 2021 và 2% năm 2020) và dịch bệnh đã được kiểm soát tốt hơn.

Tuy nhiên, trong tháng 1/2022, báo cáo cập nhật của các tổ chức quốc tế như WB, IMF, ADB, OECD… đều hạ dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2022 so với các dự báo trước đó.

 Trong đó, IMF (1/2022), dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2022 có thể đạt 4,4% (giảm 0,5 điểm %) so với dự báo hồi tháng 10/2021. Điều này phản ánh kinh tế thế giới vẫn sẽ diễn biến phức tạp do phải đối mặt với nhiều rủi ro, đặc biệt diễn biến khó lường của dịch COVID-19, lạm phát cao và căng thẳng địa chính trị giữa các quốc gia lớn dẫn đến các chính sách tiền tệ tài khóa thu hẹp, các hoạt động đầu tư thận trọng hơn sẽ suy giảm sức cầu, chắc chắn sẽ có những tác động không tích cực lên nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, đặc biệt các doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất nhập khẩu khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng.

 Môi trường vĩ mô Việt Nam 2022Ở trong nước, nền kinh tế được dự báo sẽ tiếp tục đà phục hồi khi dịch bệnh cơ bản được kiểm soát, gia tăng độ bao phủ vaccine, từng bước mở cửa nền kinh tế trong trạng thái “bình thường mới”, chính sách tài khóa và tiền tệ hỗ trợ phục hồi, chương trình phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2022-2023 chính thức được thông qua. Đây được coi là những nền tảng quan trọng để nền kinh tế phục hồi nhanh.

Dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể đạt 6,5-7% năm 2022 và 7-7,5% năm 2023 (kịch bản tích cực); CPI bình quân tăng 3,5-3,8% năm 2022-2023; nhưng cũng có thể chỉ tăng trưởng 5-5,5% năm 2022 và 6% năm 2023 (kịch bản tiêu cực). Tuy nhiên, để đạt được cả mục tiêu tăng trưởng và CPI không hề dễ dàng khi Việt Nam phải đối mặt với một loạt thách thức. Một là những  rủi ro bên ngoài như dịch bệnh, biến đổi khí hậu; lạm phát tăng cao dẫn đến việc các nước sớm thu hẹp chính sách tiền tệ, tăng lãi suất; rủi ro địa chính trị (khiến giá dầu và giá nguyên vật liệu tăng theo); Trung Quốc tăng trưởng chậm lại, ảnh hưởng đến cả cung và cầu hàng hóa, dịch vụ…

 Ở trong nước, tình hình dịch bệnh còn diễn biến phức tạp; giải ngân đầu tư công vẫn chậm, hoạt động bán lẻ phục hồi chậm do sức cầu vẫn còn yếu; thu - chi ngân sách tiếp tục đối diện với nhiều thách thức khi cơ cấu thu NSNN thiếu bền vững và chi tăng lên đáp ứng nhu cầu phòng chống dịch và phục hồi kinh tế - xã hội; sản xuất công nghiệp, hoạt động xuất nhập khẩu phụ thuộc nhiều vào sự hồi phục của các thị trường quốc tế; doanh nghiệp còn nhiều khó khăn và rủi ro nợ xấu gia tăng…

Môi trường pháp lý của Việt Nam có tác động đến nợ xấu hệ thống TCTD: Trong thời gian qua, Chính phủ và NHNN đã nỗ lực hoàn thiện và tạo tiền đề cho các khung pháp lý về xử lý nợ xấu và nâng cao chất lượng tài sản hệ thống ngân hàng (Thông tư 11/2021/TT-NHNN về phân loại nợ và trích lập dự phòng, Thông tư số 16/2021/TT-NHNN thắt chặt việc mua bán trái phiếu doanh nghiệp, dự thảo sửa đổi Thông tư số 52/2018/TT-NHNN về đánh giá tổ chức tín dụng, dự thảo sửa đổi Nghị định số 153/2020/NĐ-CP về thị trường trái phiếu doanh nghiệp …).

Sàn giao dịch nợ VAMC chính thức đi vào hoạt động ngày 15/10/2021, được đánh giá là cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng chịu ảnh hưởng to lớn do đại dịch COVID-19, góp phần tích cực tư vấn, hỗ trợ việc mua bán, cơ cấu nợ của các TCTD được diễn ra nhanh chóng, khách quan, công khai và minh bạch.

 Việc ban hành kịp thời các Thông tư 01, 03, và 14 của NHNN đã góp phần không nhỏ hỗ trợ các doanh nghiệp và giảm cú sốc nợ xấu, trích lập dự phòng rủi ro và tiếp cận vốn của người dân, doanh nghiệp trong bối cảnh dịch COVID-19. Bên cạnh đó, Nghị quyết 42, sau hơn 4 năm đi vào thực tiễn, đã có những hỗ trợ tích cực, tạo cơ chế hiệu quả, đồng bộ trong xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa bảng cân đối của các TCTD.

Vẫn thiếu khung pháp lý cho xử lý nợ xấu?

Tuy nhiên, đến nửa cuối năm 2022, các vấn đề về khung pháp lý có thể xoay chuyển theo hướng không có lợi cho vấn đề xử lý nợ xấu của toàn ngành ngân hàng. Cụ thể, Thông tư 14 sẽ hết hiệu lực từ ngày 30/6/2022, và nếu không được gia hạn thì nợ xấu tiềm ẩn từ số dư nợ được cơ cấu theo Thông tư này sẽ được thể hiện rõ ràng hơn trên bảng cân đối tài sản của các ngân hàng, khiến rủi ro nợ xấu khả năng tăng cao.

Hơn nữa, Nghị quyết 42 cũng sẽ hết hiệu lực từ 15/8/2022 và khi đó thì toàn bộ cơ chế thí điểm xử lý nợ xấu theo Nghị quyết này cũng sẽ kết thúc. Trong trường hợp Nghị quyết 42 không được gia hạn hoặc luật hóa sẽ gây ra việc thiếu hụt các cơ chế xử lý hiệu quả nợ xấu. Do đó, tiến độ cũng như hiệu quả xử lý nợ xấu của hệ thống TCTD sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực, gây ra tình trạng nợ xấu cũ chưa xử lý tiếp tục tồn đọng, quá trình xử lý nợ xấu mới phát sinh từ đại dịch sẽ kéo dài hoặc không thể giải quyết được, gây bất ổn cho hệ thống các TCTD nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung.

Có thể nói, dự báo bối cảnh kinh tế Việt Nam và thế giới cùng với môi trường pháp lý cho hoạt động xử lý nợ xấu trong năm 2022 không hoàn toàn thuận lợi cho vấn đề giải quyết nợ xấu của hệ thống TCTD. Trong bối cảnh dịch bệnh vẫn còn tiếp diễn trong năm 2022, hoạt động kinh tế tiếp tục phục hồi song doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn khiến nợ xấu có xu hướng gia tăng.

Vấn đề nợ xấu có thể trở thành tâm điểm của thị trường tài chính Việt Nam trong năm 2022, khi mà tỷ lệ nợ xấu gộp đang ở mức cao nhất trong vòng 4 năm trở lại đây, phá vỡ thành quả tái cơ cấu các TCTD giai đoạn 2016 – 2020. Do có độ trễ, nợ xấu nội bảng được dự báo có thể lên mức 2,3-2,5% và nợ xấu gộp sẽ khoảng 6% trong năm 2022, và có thể còn ở mức cao hơn khi từ năm 2024, qui định giữ nguyên nhóm nợ hết hiệu lực (theo Thông tư 14), nếu tình hình phục hồi kinh tế thiếu khả quan.