Áp ngưỡng tính thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam: Một số vấn đề đặt ra

TS. Phạm Thị Thanh Hoà

(Tài chính) Ngày 19/6/2013, Kỳ họp thứ năm Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế Giá trị gia tăng (GTGT), có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014.

Một trong những điểm sửa đổi, bổ sung quan trọng và mang tính đột phá là quy định về ngưỡng tính thuế GTGT. Quy định này làm cho hệ thống thuế GTGT của Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời đơn giản hoá cách tính thuế GTGT trực tiếp, giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả của quản lý thuế. Từ nay đến ngày 1/1/2014, thời điểm luật có hiệu lực thi hành không còn bao lâu nữa, nhưng để triển khai được ngưỡng tính thuế GTGT vẫn còn một số vấn đề cần làm rõ tại các văn bản dưới luật.

Thông lệ quốc tế về ngưỡng đăng ký thuế GTGT
 
Hiện trên thế giới có hơn 150 nước đang áp dụng thuế GTGT hoặc thuế tiêu dùng. Hầu hết các nước đều có quy định về ngưỡng đăng ký thuế GTGT, nhằm xác định đối tượng nào sẽ tham gia vào hệ thống thuế GTGT và trở thành người nộp thuế.
 
Việc áp dụng ngưỡng đăng ký thuế GTGT là để đơn giản hóa cho quản lý, phù hợp với lợi ích của người nộp thuế và cả công tác quản lý của cơ quan thuế. Việc quy định ngưỡng đăng ký thuế GTGT nhằm làm giảm đối tượng phải kê khai thuế GTGT.

Người nộp thuế GTGT chỉ bao gồm những trường hợp có khả năng tuân thủ (thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, lưu giữ hóa đơn chứng từ đầy đủ) và được hưởng ưu thế của thuế GTGT (so với thuế doanh thu) là chỉ nộp thuế trên phần giá trị gia tăng qua các khâu và không bị trùng lắp. Bên cạnh đó, việc quy định ngưỡng đăng ký thuế GTGT làm giảm chi phí tuân thủ cho người nộp thuế và tăng hiệu quả quản lý cho cơ quan thuế theo nguyên tắc hiệu quả - chi phí.
 
Việc xác định ngưỡng đăng ký thuế dựa vào doanh thu là phương pháp dễ dàng nhất để phân tách doanh nghiệp (DN) nào có năng lực tuân thủ, DN nào không. Ngoài ra, doanh thu là chỉ tiêu phản ánh quy mô đáng tin cậy nhất. Do đó, doanh thu là thước đo tốt nhất để xác định ngưỡng chịu thuế GTGT, vì nó là chỉ tiêu tính toán đơn giản nhất đối với các DN. 
 
Từ thực tế hơn 100 nước trên thế giới có áp dụng ngưỡng đăng ký thuế GTGT cho thấy, những nước áp dụng thuế GTGT tốt là nước có ngưỡng thuế GTGT dựa vào doanh thu. 
 
Một số tài liệu của các tổ chức quốc tế cũng đưa ra công thức, phương pháp để xác định ngưỡng đăng ký thuế GTGT. Tuy nhiên, việc xây dựng và áp dụng ngưỡng đăng ký thuế GTGT phụ thuộc nhiều vào điều kiện phát triển kinh tế xã hội, ý thức tuân thủ của người nộp thuế, số lượng người nộp thuế cùng với việc xác định chi phí quản lý của cơ quan thuế.

Do đó, trên thực tế, mức ngưỡng doanh thu đăng ký thuế GTGT có sự khác nhau giữa các nước. Một mức ngưỡng được xác định hợp lý nên loại trừ các đối tượng nộp thuế nhỏ, siêu nhỏ, hộ, cá nhân kinh doanh, những đối tượng này không bắt buộc phải đăng ký thuế GTGT. Một số nước phát triển đã quy định mức ngưỡng rất cao như Nhật Bản 10 triệu Yên, Anh 77.000 bảng, Singapore 1 triệu SGD…, một số nước đang phát triển trong khu vực hoặc một số nước chuyển đổi quy định mức ngưỡng thấp hơn như Thái Lan 1.800.000 Baht, Indonesia 600 triệu Rupiah, Ba Lan 150.000 PLN...

 Áp ngưỡng tính thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam: Một số vấn đề đặt ra  - Ảnh 1
 
Người nộp thuế có doanh thu bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ chịu thuế GTGT trong một năm trên ngưỡng nhất định phải thực hiện đăng ký nộp thuế GTGT và được gọi là người nộp thuế GTGT. Người nộp thuế GTGT khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ phải sử dụng hóa đơn thuế GTGT và có quyền kê khai, khấu trừ thuế GTGT đã trả trên các hóa đơn thuế mua hàng hóa, dịch vụ phục vụ hoạt động kinh doanh chịu thuế GTGT. 
 
Người nộp thuế có mức doanh thu dưới ngưỡng thì không được gọi là người nộp thuế GTGT. Tuy nhiên, các nước có quy định việc đăng ký tự nguyện, có nghĩa là, người nộp có thể đăng ký trở thành người nộp thuế GTGT tự nguyện trước khi có hoạt động kinh doanh; hoặc đăng ký nộp thuế GTGT khi mức doanh thu trong năm chưa đạt đến ngưỡng quy định nhưng đáp ứng được một số điều kiện nhất định (như là DN chuyên xuất khẩu, DN tuân thủ đầy đủ chế độ kế toán...). Các đối tượng dưới ngưỡng không phải là người nộp thuế GTGT và không được phép xuất hóa đơn có thuế khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ và không có quyền được khấu trừ thuế GTGT đã trả trên các hóa đơn thuế mua hàng hóa, dịch vụ. 
 
Việc ban hành ngưỡng đăng ký thuế GTGT tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT, một mặt để phù hợp với chuẩn mực chung của quốc tế đã được đặt ra và phê duyệt thành định hướng hoàn thiện hệ thống thuế ở Việt Nam. Ngoài ra, một lý do hết sức quan trọng và cấp thiết khi ban hành ngưỡng đó là, quy định ngưỡng sẽ góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính và nâng cao hiệu quả quản lý thuế.
 
Hiện nay, cơ quan thuế từ trung ương đến địa phương với nguồn nhân lực hơn 4 vạn người đang quản lý khoảng 400.000 DN và 1,7 triệu hộ, cá nhân kinh doanh. Trong số người nộp thuế đang quản lý, có rất nhiều trường hợp (kể cả số lượng lớn trong đó là DN) quy mô rất nhỏ, doanh thu thấp và có số thuế GTGT nộp vào ngân sách nhà nước không đáng kể.

Hiện nay, Luật Quản lý thuế đã được sửa đổi, bổ sung theo nguyên tắc quản lý rủi ro, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm tần suất kê khai để nâng cao hiệu quả quản lý, tránh tình trạng “dàn đều” nguồn lực, không phân biệt theo quy mô cũng như mức độ đóng góp của người nộp thuế cho ngân sách nhà nước gây lãng phí chi phí tuân thủ.
 
Việc quy định ngưỡng tính thuế GTGT sẽ giúp phân loại được nhóm người nộp thuế cần ưu tiên quản lý, nhóm này sẽ thực hiện khai thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ như hiện hành; đối với nhóm người nộp thuế nhỏ (dưới ngưỡng) có thể đơn giản hoá cách thức quản lý để giảm chi phí quản lý và áp lực công việc cho cán bộ thuế.
 
Những vấn đề cần làm rõ tại các văn bản dưới luật
 
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT quy định, ngưỡng doanh thu từ 1 tỷ đồng/năm trở lên để áp dụng phương pháp khấu trừ thuế GTGT. DN, Họp tác xã có doanh thu dưới ngưỡng 1 tỷ đồng/năm phải nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, trừ trường hợp có đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp này; đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết cho phù hợp với thực tế.
 
Ngưỡng tính thuế GTGT là cơ chế mới, cần có quá trình triển khai, thực hiện linh hoạt, phù hợp với thực tế. Vì vậy, cần thiết phải có những hướng dẫn cụ thể về cơ chế này. Một số nội dung sau có tính chất nguyên tắc cần được làm rõ tại các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật.
 
Về trường hợp có doanh thu biến động so với mức ngưỡng

Để tránh phải thay đổi phương pháp tính thuế, lúc lên ngưỡng, xuống ngưỡng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, cần thiết phải có quy định về thời gian ổn định để áp dụng ngưỡng. Các nước quy định về thời gian ổn định ngưỡng rất khác nhau. Có nước cho phép DN được đăng ký kê khai khấu trừ ngay khi có doanh thu vượt trên ngưỡng, có nước quy định phải có doanh thu trên ngưỡng trong hai năm...

Với tình hình thực tế của Việt Nam hiện nay, việc ổn định phương pháp tính thuế (khấu trừ hoặc trực tiếp trên GTGT) nên được thực hiện trong vòng 2 hoặc 3 năm. Trường hợp cơ sở kinh doanh đang nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ nhưng có doanh thu dưới mức ngưỡng 1 tỷ đồng thì phải dưới ngưỡng này tỷ đồng trong 2 - 3 năm liên tục thì mới phải chuyển sang nộp thuế theo phương pháp trực tiếp (nếu 1 năm có doanh thu trên mức ngưỡng thì vẫn nộp theo phương pháp khấu trừ). Ngược lại, trường hợp cơ sở kinh doanh đang nộp thuế theo phương pháp trực tiếp có doanh thu vượt trên mức ngưỡng trong 2-3 năm liên tục thì mới chuyển sang nộp thuế theo phương pháp khấu trừ.
 
Cách xác định doanh thu ngưỡng

Luật quy định cơ sở kinh doanh có doanh thu hàng năm từ 1 tỷ đồng trở lên sẽ áp dụng phương pháp khấu trừ thuế. Theo đó, các văn bản dưới luật cần thiết phải làm rõ doanh thu để xác định ngưỡng đăng ký thuế GTGT phải là doanh thu hàng hoá, dịch vụ bán ra thuộc đối tượng chịu thuế GTGT. 
 
Ngoài ra, doanh thu 1 tỷ đồng nên xác định là doanh thu của một năm nhất định, vì nếu lấy doanh thu của năm trước liền kề thì theo quy định hiện hành về quản lý thuế phải đến 20/1 của năm sau mới xác định được doanh thu của năm trước liền kề, trong khi từ ngày 1/1 của năm sau, DN đã phải lập hoá đơn để tính thuế (DN trên ngưỡng thực hiện phương pháp khấu trừ mới được sử dụng hoá đơn GTGT, DN dưới ngưỡng thực hiện phương pháp trực tiếp không được sử dụng hoá đơn GTGT).
 
Việc xác định ngưỡng tính thuế GTGT cũng cần quy định rõ năm áp dụng, do người nộp thuế tự xác định doanh thu trên hay dưới ngưỡng để đăng ký với cơ quan thuế. Cơ quan thuế sẽ thực hiện hậu kiểm việc xác định của người nộp thuế để đảm bảo đúng thực tế phát sinh có đúng hay không.
Về cơ chế tự nguyện đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ: 
 
Thông lệ quốc tế về đăng ký tự nguyện áp dụng ngưỡng cũng rất khác nhau. Do các nước chỉ có một mức ngưỡng và dưới ngưỡng thì không thu thuế GTGT (hay không phải là người nộp thuế GTGT) nên việc đăng ký tự nguyện rất đơn giản, chỉ cần người nộp thuế thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, sổ sách, hoá đơn là được trở thành người nộp thuế GTGT.  
 
Ở Thái Lan, ngưỡng đăng ký thuế GTGT là 800,000 Baht (tương đương 58,600 USD). Đối với DN nhỏ dưới ngưỡng đăng ký nêu trên có quyền đăng ký tham gia chế độ thuế GTGT tự nguyện với điều kiện doanh thu chịu thuế không thấp hơn 600.000 Baht một năm. 
 
Nam Phi có ngưỡng đăng ký thuế GTGT là 1.000.000 Rand  (tương đương 116.000 USD). Điều kiện đối với việc đăng ký tự nguyện ở Nam Phi là có doanh thu ít nhất là 50.000 Rand trong năm trước khi đăng ký và có tài khoản dưới tên DN mở tại ngân hàng. Ngoài ra, cơ quan thuế có thể xem xét một số điều kiện bổ sung để không được cấp đăng ký đối với những trường hợp: không có địa chỉ kinh doanh cố định; không duy trì sổ sách kế toán; không có tài khoản tại ngân hàng; đã từng đăng ký kinh doanh nhưng không hoàn thành nghĩa vụ thuế.
 
Việc áp dụng ngưỡng kê khai, nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, ngoài mục tiêu góp phần đơn giản hoá về thủ tục, tiết kiệm chi phí tuân thủ cho DN nhỏ, còn có mục tiêu hạn chế việc gian lận thuế GTGT, nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thuế. Để thực hiện mục tiêu này, trong các văn bản dưới luật cần quy định những điều kiện đăng ký tự nguyện thật cụ thể, phù hợp với tình hình kinh tế của Việt Nam hiện nay.
 
Để Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT sớm đi vào thực tiễn, ngoài một số vấn đề cần điều chỉnh về cơ chế chính sách, cơ quan thuế cũng cần rà soát để thay đổi các mẫu biểu, tờ khai của người nộp thuế dưới ngưỡng (tờ khai đơn giản, tần suất kê khai), đi theo đó là các quy trình quản lý, chương trình ứng dụng… nhằm đảm bảo triển khai đồng bộ và thống nhất trong cả nước.