Động lực thúc đẩy kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập

ThS. Hoàng Trường Giang, Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương

Có một thời gian dài nền kinh tế nước ta tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng (vốn, lao động và khai thác tài nguyên) và nghiêng nhiều về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động. Trong khi đó, vốn nước ta còn thiếu, lao động lại khá dồi dào, năng suất nhân tố tổng hợp đóng góp không nhiều cho tăng trưởng. Tình trạng này là nguyên nhân cơ bản làm cho tăng trưởng kinh tế của nước ta thiếu bền vững, chất lượng tăng trưởng chậm được cải thiện.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Trong bối cảnh đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng kinh tế dần hồi phục và có những tín hiệu tích cực, thì việc xác định những “điểm nghẽn” của tăng trưởng kinh tế, tìm kiếm động lực mới tạo ra những đột phá cho phát triển kinh tế trong giai đoạn hội nhập kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và quyết định đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững cho giai đoạn mới và các năm tiếp theo.

Những “điểm nghẽn” của tăng trưởng kinh tế nhìn từ các yếu tố cơ bản của tăng trưởng GDP và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô

Các yếu tố cơ bản tác động tới tăng trưởng GDP

Mức độ tăng trưởng GDP phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ bản: Vốn, lao động và năng suất nhân tố tổng hợp (TFP)(1). Theo các kết quả nghiên cứu, sự đóng góp các yếu tố vào tăng trưởng GDP của nước ta qua các giai đoạn 2006 - 2010, 2011 - 2014 và ước thực hiện trong năm 2015 như sau:

- Trong giai đoạn 2006 - 2010, đóng góp vào tăng trưởng GDP chủ yếu là vốn với 58%. Trong giai đoạn 2011 - 2015, tuy vốn đóng góp vào tăng trưởng GDP có giảm nhưng vẫn ở mức cao (51,5%); trong khi đó mức đóng góp vào tăng trưởng GDP của yếu tố lao động tăng không đáng kể, chỉ từ 19% lên 23%, đóng góp của TFP tăng từ 23% lên 25,5% và thấp hơn mục tiêu đề ra (mục tiêu đóng góp của TFP trong tăng trưởng GDP là 30% theo Quyết định số 712/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020”). So với các nước trong khu vực và các nước trong thời kỳ phát triển thì mức đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP của Việt Nam thấp hơn đáng kể (ở Thái Lan mức đó là 35%, Phi-lip-pin: 41%, In-đô-nê-xi-a: 43%, Hàn Quốc trong giai đoạn 1980 - 2000: 39,96%, Ấn Độ: 40,78%,...).

Qua đó thấy rằng, “điểm nghẽn” của tăng trưởng kinh tế nước ta chính là sự đóng góp của TFP còn thấp so với tiềm năng, là yếu tố kìm hãm sự phát triển bền vững. Do vậy, trong giai đoạn tới, cần cải thiện và nâng yếu tố đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP lên khoảng 35% - 40%. Vấn đề quan trọng khác là cần cơ cấu lại các ngành kinh tế, chú trọng phát triển ngành thương mại - dịch vụ. Hiện nay, tỷ trọng đóng góp vào tăng trưởng GDP của các ngành nông - lâm - ngư nghiệp; công nghiệp - xây dựng; thương mại - dịch vụ trong các giai đoạn 2006 - 2010 và 2011 - 2015 thay đổi không đáng kể. Tỷ trọng của ngành nông - lâm - ngư nghiệp trong GDP không cao (khoảng 18% - 19%), trong khi ngành này đang sử dụng khoảng 50% lao động, với năng suất lao động thấp. Ở một số nước có nền công nghiệp phát triển như Đức, ngành đóng góp nhiều nhất cho GDP và tăng trưởng GDP là ngành thương mại - dịch vụ, đây là ngành phát triển mạnh trong những năm gần đây; trong khi phần lớn diện tích nước Đức dùng cho nông nghiệp, nhưng chỉ có 2% - 3% dân số Đức làm việc trong ngành này.

Do vậy, muốn nâng cao tăng trưởng GDP và phát triển kinh tế bền vững cần chú trọng nhiều hơn vào 2 ngành đóng góp nhiều trong cơ cấu tăng trưởng GDP, đó là thương mại - dịch vụ và xây dựng - công nghiệp; trong đó, ngành thương mại - dịch vụ đóng vai trò then chốt. Đối với ngành nông - lâm - ngư nghiệp cần chú trọng công nghiệp hóa trong nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và đẩy mạnh xuất khẩu.

Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô tác động tới tăng trưởng kinh tế

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê và kết quả nghiên cứu của Đại học Kinh tế quốc dân về tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011 - 2014 và dự kiến trong năm 2015, các chỉ tiêu vĩ mô bình quân cho giai đoạn 2011 - 2015 so với giai đoạn 2006 - 2010 như sau:

- Tổng mức đầu tư toàn xã hội bình quân giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 31% GDP. Giai đoạn 2006 - 2010 khoảng 39,34%, do tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng và động lực tăng trưởng là vốn, nên mặc dù năm 2006 là năm kinh tế quốc tế có nhiều thuận lợi, tăng trưởng GDP của Việt Nam là 6,98% thì tổng mức đầu tư toàn xã hội là 38,1% GDP, năm 2007 tăng trưởng GDP là 7,13% thì tổng mức đầu tư toàn xã hội là 42,7% GDP. Như vậy, có thể thấy rằng với mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng và chủ yếu tăng trưởng nhờ vào tăng trưởng vốn, khai thác tài nguyên và lao động, để tăng trưởng GDP khoảng 7% thì tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 35% - 40%, nếu tăng trưởng GDP khoảng 6% thì tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 31% - 33%(2). Trong bối cảnh kinh tế trong nước chưa có nhiều chuyển biến mạnh mẽ và tích cực, nhất là chưa xuất hiện động lực tăng trưởng mới từ TFP, hiệu quả của cơ cấu lại kinh tế, cải cách thể chế, thực hiện ba đột phá chiến lược và chuyển đổi mô hình tăng trưởng chưa phát huy tác dụng ngay từ bước đầu thực hiện kế hoạch 5 năm 2016 - 2020, đầu tư công đang phải điều chỉnh do nợ công sắp chạm ngưỡng cho phép, thì việc huy động nguồn vốn tư nhân và nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm cả đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI), cho đầu tư phát triển sẽ là yếu tố quyết định đến tăng trưởng.

- Lạm phát: Lạm phát bình quân giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 9%. Như vậy, với ưu tiên kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô có thể kiểm soát ở mức 6% - 7% cho thời gian tới (nên duy trì ở mức này để tạo đà phát triển), tăng trưởng tín dụng 12% - 15% để kích thích sản xuất và tiêu dùng, với mức tăng trưởng tín dụng như vậy sẽ đồng thời kiềm chế lạm phát ở mức hợp lý.

- Bội chi ngân sách: Bình quân bội chi ngân sách giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 5,1% GDP, thấp hơn giai đoạn 2006 - 2010 (5,5%). Một số năm gần đây tỷ lệ vay để trả nợ và đảo nợ có xu hướng tăng trong bội chi ngân sách, mặt khác các khoản thu, như dầu thô, thu bán tài sản là những nguồn thu hữu hạn làm giảm tính bền vững nguồn thu ngân sách. Bội chi ngân sách kéo dài làm cho nền kinh tế phát triển không bền vững trong dài hạn. Trong giai đoạn tới, việc giảm tỷ lệ bội chi ngân sách dưới 5% trong khi nhu cầu đầu tư phát triển và trả nợ cao là rất khó khăn, tỷ lệ này cao hơn mức bội chi ngân sách khoảng 4% trong chiến lược nợ công giai đoạn 2016 - 2020 nhưng cũng bằng các nước của Liên minh châu Âu (EU) và cao hơn của In-đô-nê-xi-a(3).

- Nợ công bình quân giai đoạn 2011 - 2015 ở mức 58,2% GDP, tăng so với giai đoạn 2006 - 2010 (48%).

- Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (chỉ số ICOR) của toàn bộ nền kinh tế giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 6,5 đã có xu hướng giảm thấp hơn giai đoạn 2006 - 2010 (6,96), nhưng vẫn cao hơn các nước trong khu vực và một số nước trong giai đoạn phát triển(4). Với ba đột phá chiến lược và cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư, nhất là đầu tư công, tránh đầu tư dàn trải, lãng phí, tham nhũng, tập trung phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại, nước ta cần phấn đấu đưa chỉ số ICOR chung của nền kinh tế xuống dưới mức 4,5.

Một số giải pháp tạo động lực thúc đẩy kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế

Trên cơ sở phân tích các yếu tố tác động đến tăng trưởng GDP và các chỉ tiêu vĩ mô tác động tới tăng trưởng kinh tế, có thể thấy những “điểm nghẽn” của tăng trưởng kinh tế trong những năm qua. Do vậy, cần có những giải pháp tạo động lực thúc đẩy kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế.

Thứ nhất, tăng TFP lên mức 35%, mục tiêu phấn đấu đạt 40%

Để đạt được mục tiêu này cần đẩy mạnh cải cách thể chế, cơ cấu lại nền kinh tế, tăng cường xuất khẩu, phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, đẩy mạnh sáng tạo...

- Cải cách thể chế một cách toàn diện và mạnh mẽ, nhất quán, cắt giảm các thủ tục hành chính hướng tới bằng trung bình của các nước ASEAN 6 (Bru-nây, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin, Thái Lan, Xin-ga-po) ASEAN 4 (In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin, Thái Lan), tinh giảm bộ máy hành chính, không tăng biên chế, thực hiện bầu trực tiếp chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã, huyện(5). Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc thực hiện đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường, nhất là trong thực hiện cơ chế giá và phân bổ nguồn lực, dịch vụ công; đồng thời Nhà nước phải có công cụ điều tiết, chính sách phân phối để bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội, phát triển các loại thị trường, chú trọng phát triển thị trường trong nước.

- Cơ cấu lại đầu tư, nhất là đẩy mạnh cơ cấu lại đầu tư công, đưa chỉ số ICOR chung của nền kinh tế về khoảng 4 - 4,5. Đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại. Rà soát, hoàn chỉnh quy hoạch quan trọng, như quy hoạch không gian phát triển kinh tế - xã hội, không gian hạ tầng và đô thị, sử dụng đất... bảo đảm hiệu quả tổng hợp, tính thống nhất, hệ thống. Quy hoạch phải đi trước một bước(6), làm cơ sở cho việc hoạch định kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng vùng kinh tế gắn với liên kết vùng.

- Cơ cấu lại nền kinh tế: 1- Tập trung cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, hình thành cơ quan ngang bộ thực hiện thống nhất chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích và tạo động lực để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp, giải quyết nợ xấu trong lĩnh vực ngân hàng; 2- Đẩy mạnh phát triển ngành thương mại - dịch vụ, coi đây là ngành then chốt tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động. Thúc đẩy hợp tác quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu kết hợp xây dựng thương hiệu quốc gia về các sản phẩm chủ lực của Việt Nam; 3- Trong công nghiệp chú trọng phát triển một số ngành công nghiệp nền tảng (năng lượng, cơ khí chế tạo, vật liệu mới,...) và phát triển công nghiệp phụ trợ, viễn thông và công nghệ cao; 4- Ngành nông, lâm, ngư nghiệp chú trọng nâng cao giá trị gia tăng, tham gia chuỗi giá trị từ khâu đầu vào, sản xuất và phân phối, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển kinh tế biển gắn với gìn giữ chủ quyền biển, đảo của quốc gia.

- Hội nhập kinh tế và tăng cường xuất khẩu: Tiếp tục quán triệt sâu sắc và triển khai có hiệu quả các nghị quyết của Đảng về hội nhập quốc tế. Chủ động, tích cực đàm phán, ký kết gia nhập các thỏa thuận quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, tín dụng quốc tế, sở hữu trí tuệ, thuế quan, bảo vệ môi trường... Rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thực thi các hiệp định thương mại tự do đang đàm phán, đặc biệt là Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Việt Nam - EU; Liên minh hải quan Nga, Bê-la-rút và Ca-dắc-xtan. Cần có chương trình hành động, kế hoạch thực hiện các cam kết quốc tế và tận dụng các cơ hội hội nhập để tranh thủ các nguồn lực bên ngoài và mở rộng thị trường. Chuẩn bị đầy đủ điều kiện tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN 2015. Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế.

Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là động lực cho sự tăng trưởng trong giai đoạn này: Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm để tham gia hiệu quả phân công lao động và liên kết chuỗi giá trị toàn cầu. Nâng cao năng lực phân tích, dự báo kinh tế trong nước và toàn cầu để kịp thời điều chỉnh chính sách, chiến lược và ngăn ngừa rủi ro từ bên ngoài. Xây dựng thương hiệu quốc gia đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực có giá trị gia tăng cao, tăng nguồn thu ngoại tệ bảo đảm cân đối ngoại hối.

- Phát triển khoa học và công nghệ: Huy động mạnh mẽ nguồn vốn xã hội và vốn nước ngoài cho phát triển khoa học và công nghệ. Khuyến khích tư nhân thành lập hoặc liên kết với Nhà nước thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm đối với các hoạt động nghiên cứu phát triển công nghệ mới, công nghệ cao. Hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp trong nước phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Gắn thu hút nguồn vốn FDI với phát triển khoa học - công nghệ để có công nghệ nguồn và công nghệ mới.

Thứ hai, tăng huy động tổng đầu tư toàn xã hội cho phát triển trong khoảng từ 35% đến 40%, chủ yếu là huy động nguồn vốn tư nhân tham gia đầu tư tạo động lực mới cho phát triển kinh tế và thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI, FPI) một cách có chọn lọc gắn với chuyển giao công nghệ mới, công nghệ nguồn và phát triển công nghiệp phụ trợ trong nước, liên kết với các doanh nghiệp trong nước và phát triển thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp sẽ là yếu tố quyết định đến tăng trưởng. Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp, huy động đầu tư vào ngành thương mại và dịch vụ tạo động lực trong huy động nguồn vốn tư nhân trong nước và phát triển ngành thương mại và dịch vụ, đưa ngành thương mại và dịch vụ đóng góp với mức khoảng 60% vào GDP.

Thứ ba, về lao động: 1- Đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế, chủ yếu là hội nhập kinh tế quốc tế. 2- Thực hiện đào tạo theo cơ chế thị trường, bảo đảm quyền tự chủ gắn với nâng cao trách nhiệm xã hội của các cơ sở đào tạo; liên kết chặt chẽ giữa cơ sở sử dụng lao động và cơ sở đào tạo. 3- Thu hút nhân tài, nhất là nguồn nhân tài được đào tạo từ nước ngoài để phát triển đất nước. 4- Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng từ năng suất lao động thấp sang năng suất lao động cao, đặc biệt chú trọng chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang thương mại - dịch vụ.

Thứ tư, quản lý các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô để duy trì ổn định và tạo đà tăng trưởng, như quản lý nợ công, kỷ luật ngân sách, giảm bội chi ngân sách, kiềm chế lạm phát.../.

-----------------------------------------

(1) Trong phương pháp tính toán về sự tăng trưởng, năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) là phần còn lại trong kết quả sản xuất tăng lên sau khi loại trừ phần đóng góp do yếu tố đầu tư thêm về lao động nhân công, tư bản, tài nguyên… TFP là hiệu quả tổng hợp không giải thích được bằng sự gia tăng của các yếu tố sản xuất và được xem là kết quả của các yếu tố liên quan đến hiệu suất. Nền kinh tế phát triển càng có hiệu suất thì phần còn lại này càng lớn

(2) Tỷ lệ tổng đầu tư toàn xã hội trên GDP của Việt Nam giai đoạn 1996 - 2000 là 33,3% GDP tạo sự tăng trưởng GDP là 7%, giai đoạn 2001 - 2005 là 39,1% GDP tạo sự tăng trưởng GDP là 7,49%. Tỷ lệ này cao hơn nhiều nước trong khu vực và các nước trong giai đoạn phát triển, chỉ thấp hơn Trung Quốc (44,2%), cao hơn nhiều so với Hàn Quốc (29,4%), Thái lan (26,8%), In-đô-nê-xi-a (24,9%), Ma-lai-xi-a (21,9%), Phi-lip-pin (15,3%), qua các năm tỷ lệ này đều giảm ở hầu hết các nước, khi tăng trưởng vốn hết động lực, các nước chú trọng vào tăng trưởng của lao động và TFP

(3) Theo quy định của khối EU có bội chi ngân sách không vượt quá 3%, nợ công không vượt quá 60% GDP, tuy nhiên, thực tế hầu hết các nước trong khối có bội chi ngân sách trên 5%, nợ công khoảng 100%, In-đô-nê-xi-a bội chi ngân sách không vượt quá 3% và nợ công không vượt 60% GDP

(4) Như Hàn Quốc giai đoạn 1961 - 1980 là 3,0; của Đài Loan giai đoạn 1961 - 1980 là 2,7; của Thái Lan giai đoạn 1981 - 1995 là 4,1; của Trung Quốc giai đoạn 2001 - 2006 là 4,0

(5) Đây là cấp giải quyết các thủ tục hành chính với người dân, việc bầu trực tiếp cấp hành chính này sẽ thay đổi cơ bản việc giải quyết các thủ tục hành chính với người dân, chuyển từ nhà nước quản lý sang nhà nước phục vụ nhân dân

(6) Có quy hoạch tốt mới có dự án tốt và khi đó mới có nhà đầu tư tốt, thu hút các nguồn lực xã hội và nguồn vốn đầu tư của Nhà nước đúng nơi, đúng chỗ, phân bổ phù hợp để phát huy hiệu quả cao nhất