Khắc phục những bất ổn từ nội tại của nền kinh tế, hướng tới sự phát triển bền vững

TS. Phạm Huy Hùng

Tái cơ cấu nền kinh tế đang được nhắc đến như một nhiệm vụ cấp bách của sự phát triển và đi lên của kinh tế đất nước. Năm 2012, Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng được triển khai thực hiện, trong đó tập trung vào 3 lĩnh vực quan trọng nhằm khắc phục những yếu kém nội tại của nền kinh tế. Nhìn lại một năm qua, tái cơ cấu nền kinh tế đã có những kết quả nhất định.

Khắc phục những bất ổn từ nội tại của nền kinh tế, hướng tới sự phát triển bền vững
Ảnh minh họa. Nguồn:Internet

Tái cơ cấu nền kinh tế năm 2012

Tái cơ cấu đầu tư công, cùng với việc chuyển hướng phát triển kinh tế theo chiều sâu, tái cơ cấu đầu tư công đã được đặt ra với trọng tâm là nâng cao hiệu quả đầu tư nói chung, đặc biệt là đầu tư nhà nước. Điều chỉnh giảm mạnh dự toán chi đầu tư ngân sách gắn với mở cửa, cắt giảm thuế để hỗ trợ doanh nghiệp; thu hẹp phạm vi đầu tư nhà nước. Tổng vốn đầu tư xã hội đã giảm từ trên 41,5% GDP năm 2008 xuống 33,5% năm 2012. Tốc độ tăng dự toán thu, chi cân đối NSNN năm 2012 so với ước thực hiện năm 2011 là 9,8% và 2,5%, thấp xa so với các năm trước.

Bảng 1. Tăng trưởng thu, chi NSNN hàng năm (%)

http://daibieunhandan.vn/media/13/04/130424203017630/03-khac-phuc-11513-480.jpg

Nguồn: Tính toán từ số liệu online Bộ Tài chính

Do những khó khăn của nền kinh tế, vài chục ngàn doanh nghiệp trong nước đã phá sản, giải thể, ngừng hoạt động, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành đã có nhiều chính sách, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 83/2012/TT-BTC hướng dẫn thực hiện miễn giảm, gia hạn một số khoản thu ngân sách nhà nước (NSNN) theo Nghị quyết 13/2012/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường. Đồng thời Bộ Tài chính đã rà soát, cắt giảm, sắp xếp lại để điều chuyển vốn đầu tư từ NSNN, trái phiếu Chính phủ trong phạm vi quản lý, tập trung vốn nhằm đẩy nhanh tiến độ các công trình quan trọng, cấp thiết có khả năng hoàn thành trong năm 2012 và 2013. Tăng cường giải ngân nguồn vốn đầu tư trong cân đối ngân sách, tăng đầu tư công bằng nguồn huy động(1), trong khi thể chế đầu tư công còn nhiều bất cập (đầu tư công và quy hoạch đang để lại hậu quả lớn cho nền kinh tế), nên hiệu quả đầu tư Nhà nước luôn thấp hơn các khu vực kinh tế khác(2) trong khi khu vực này đang sử dụng một lượng vốn lớn hơn nhiều các khu vực kinh tế khác để tạo ra một đơn vị đầu ra. Tăng trưởng kinh tế của khu vực nhà nước chỉ bằng 2/3 tăng trưởng kinh tế của khu vực ngoài nhà nước. Vì vậy, NSNN đã phải tăng vay nợ trên thị trường sơ cấp trái phiếu, tín phiếu Kho bạc Nhà nước để bù đắp nguồn thu. Nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại (NHTM) đáng lẽ chảy vào các doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa, thì lại chạy vào khu vực nhà nước. Điều này dường như đi ngược mục tiêu tái cơ cấu, sẽ tạo các áp lực lớn về hiệu quả đối với nền kinh tế. Bởi nếu số tiền này sử dụng, mà không sinh lời cao, thì nó sẽ trở thành gánh nặng cho quốc gia. Giải pháp cơ bản nhất cho ngân sách quốc gia cũng như từng địa phương là phải tạo mọi thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân sản xuất kinh doanh để nuôi nguồn thu, các chính sách phải hướng vào số đông này. Nhưng trên thực tế cũng vì nhiều lý do, doanh nghiệp nhỏ và vừa phá sản, thua lỗ, hàng tồn kho tăng cao, người lao động kiếm việc làm khó khăn. Như vậy, hiệu quả của tái cơ cấu đầu tư công còn hạn chế.

Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một trong ba trụ cột ưu tiên trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế đến năm 2015. Tháng 7.2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Ngay sau khi đề án được phê duyệt, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, các địa phương đã xây dựng đề án. Tính đến cuối năm 2012 có 52 tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã trình bộ chuyên ngành, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó có 16 đề án đã trình Thủ tướng Chính phủ; có 23/52 tập đoàn, tổng công ty đã được phê duyệt đề án tái cơ cấu. Đối với các doanh nghiệp địa phương, có 21/23 đề án của các tổng công ty, công ty đã được UBND các tỉnh, thành phố phê duyệt(3).

Bên cạnh đó, một số cơ chế, chính sách đã xây dựng và được cấp có thẩm quyền phê duyệt như Nghị định số 99/2012/NĐ-CP về Phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN; dự thảo Nghị định về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC); dự thảo Nghị định về giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn nhà nước...

Trong  năm qua, việc tái cơ cấu DNNN tập trung ở một số việc: trình duyệt đề án tái cấu trúc, yêu cầu thoái vốn đầu tư ngoài ngành, trong khi những yếu kém của DNNN không chỉ liên quan đến đầu tư ngoài ngành, mà còn ở những vấn đề cốt lõi liên quan đến đại diện chủ sở hữu, vấn đề quản trị nội bộ, kiểm tra kiểm soát; vấn đề công khai minh bạch thông tin, vấn đề tham nhũng lãng phí... chưa được làm rốt ráo. Những vụ việc gây thất thoát, lãng phí lớn vốn và tài sản nhà nước đa số tập trung vào DNNN. Những vấn đề này đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế, đến sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Vì thế, tăng trưởng kinh tế năm 2012 tiếp tục sụt giảm, đạt 5,03%, khá xa so với kế hoạch đặt ra và thấp nhất trong 12 năm qua.

Biểu 1: Tốc độ tăng trưởng GDP qua các năm (%)

http://daibieunhandan.vn/media/13/04/130424203017630/03-khac-phuc-11513-480a2.jpg

Nguồn: TCKT

Tái cơ cấu các ngân hàng thương mại, mục tiêu quan trọng nhất của tái cơ cấu các NHTM được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xác định là lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng. Xây dựng hệ thống ngân hàng có đủ sức cạnh tranh trong và ngoài nước, trong môi trường thế giới ngày càng có nhiều biến động. Cấu trúc lại cơ cấu hoạt động của hệ thống ngân hàng để bảo đảm giữa cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế một cách hợp lý. Hệ thống ngân hàng phải đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam.

Để thực hiện đề án này, NHNN đã thực hiện nhiều biện pháp như phân loại các NHTM yếu kém thuộc sự kiểm soát của NHNN; áp giới hạn tăng trưởng tín dụng đối với 4 nhóm tổ chức tín dụng là 17%, 15%, 8% và 0%; cho vay hỗ trợ thanh khoản đối với các NHTM thiếu thanh khoản; cho phép cơ cấu lại nợ; xử lý sở hữu chéo trong ngân hàng; thực hiện cơ chế mua bán nợ; sáp nhập, hợp nhất và xử lý nợ xấu... Những biện pháp này đã giúp từng bước ổn định hệ thống ngân hàng, về cơ bản đến cuối năm 2012, lãi suất cho vay đối với nền kinh tế đã đưa xuống dưới 15%, tạo điều kiện để vốn tín dụng đến được các khu vực sử dụng vốn có hiệu quả.

Tuy nhiên, năm 2012, tăng trưởng tín dụng cũng ở mức thấp (khoảng 8%), trong khi nợ xấu tăng nhanh, không dễ xử lý - điều này đã đe dọa sự tồn tại của nhiều ngân hàng. Trong khi minh bạch, lành mạnh hóa các NHTM chưa thực sự diễn ra, sáp nhập theo hình thức cộng các pháp nhân với nhau, chưa thể nói rằng sau sáp nhập, các ngân hàng này có điều kiện phát triển bền vững.

Giải pháp cho năm 2013

Năm 2013, tăng trưởng kinh tế mặc dù kỳ vọng có thể tăng cao hơn năm 2012, nhưng tình hình kinh tế - xã hội trong nước vẫn tiếp tục khó khăn. Vì thế, để hiện thực hóa các đề án tái cơ cấu, các giải pháp phải được thực hiện đồng bộ.

Thứ nhất, cần một quyết tâm chính trị mạnh mẽ từ các nhà lãnh đạo. Theo đó, cần có sự thay đổi trong quản lý và điều hành nền kinh tế để có điều kiện giải quyết vấn đề ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát và tái cấu trúc nền kinh tế có hiệu quả. Năm 2013 cần xác định rõ mục tiêu, cách làm cho từng năm để đạt hiệu quả cụ thể. Chính phủ cần chỉ đạo quyết liệt để xử lý hàng tồn kho và nợ xấu của ngân hàng, không để tình trạng vốn lòng vòng trong một số tổ chức tín dụng và công ty con. Nhanh chóng giải quyết những bất ổn trong hệ thống, khắc phục phân bổ vốn đầu tư chồng chéo, kém hiệu quả, nợ xấu mới tiếp tục gia tăng. Tái cơ cấu nền kinh tế là vấn đề lớn, cần sự chỉ đạo quyết liệt, nhất quán, buộc thực hiện, đồng thời lộ trình đưa ra phải rõ ràng, hợp lý và khả thi.

Thứ hai, tạo sự chuyển biến rõ rệt về kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Tiếp tục triển khai đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa một số dịch vụ công gắn với tinh giản bộ máy tổ chức, biên chế, tái cấu trúc mạnh mẽ nền tài chính công. Phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước ở từng cấp. Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất về quy hoạch và định hướng phát triển. Nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ công chức, viên chức về chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất chính trị. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động và giám sát của các cơ quan nhà nước gắn với việc đổi mới phương thức điều hành của hệ thống hành chính.

Thứ ba, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, tạo sự đồng thuận xã hội. Đề cao vai trò và trách nhiệm của các cơ quan thông tin đại chúng, kịp thời tuyên truyền các giải pháp của Chính phủ trong quá trình tái cấu trúc. Khi có nhiều ý kiến trái chiều về những chính sách và biện pháp của các cơ quan quản lý nhà nước đưa ra, cần nhanh chóng tổ chức đối thoại và tiếp nhận các ý kiến phản biện chính sách, thực hiện giải trình, để tạo sự đồng thuận cao và phát huy sức mạnh của toàn xã hội trong việc thực hiện các giải pháp tái cấu trúc.

Thứ tư, rà soát các cơ chế, chính sách không hợp lý (chính sách đất đai; cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp, cơ chế giám sát, cơ chế tiền lương, chính sách thuế...), rút ngắn khoảng cách từ chính sách đến thực tế, thì mới có khả năng đẩy nhanh quá trình phát triển của nền kinh tế, trong đó có các doanh nghiệp.

Thứ năm là các giải pháp đối với từng lĩnh vực tái cơ cấu. Để tái cơ cấu đầu tư công đạt được kết quả như mong muốn, thì cải tổ thể chế phân cấp đầu tư và quản lý đầu tư là vấn đề cấp thiết. Cải tổ thể chế phân cấp cần quán triệt nguyên tắc: chỉ phân cấp nếu bảo đảm hiệu quả kinh tế, tức là cấp nào có khả năng cung cấp dịch vụ với chi phí thấp nhất, có khả năng kiểm soát được chi phí và thực hiện được trách nhiệm giải trình; phân cấp theo quy mô, đặc biệt trong việc quản lý vốn đầu tư, khắc phục tình trạng lãng phí nguồn lực giữa các địa phương.

Đối với tái cơ cấu hệ thống NHTM, cần xác định rõ tái cơ cấu ngân hàng là vấn đề phức tạp, khi mức độ quan hệ sở hữu vốn đan xen ở một số tổ chức tín dụng, nợ xấu không dễ dàng xác định chính xác, thì việc tái cơ cấu phải có bước đi cụ thể. Vì vậy, đề án tái cấu trúc (dù đã được Chính phủ phê duyệt) nhưng cần làm rõ: mục tiêu cần đạt được sau tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, mô hình ra sao; yêu cầu quản trị công ty, công nghệ, năng lực tài chính và nguồn nhân lực đối với các ngân hàng sau hợp nhất, sáp nhập... đạt ở mức nào sau tái cấu trúc... Đối với NHTM nhà nước, cần tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa; giảm tỷ trọng phần vốn nhà nước ở mức hợp lý, để tăng năng lực tài chính; đổi mới hệ thống quản trị nội bộ ngân hàng phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Cơ cấu lại các công ty con của ngân hàng, xử lý từng bước sở hữu chéo (yếu tố tiềm ẩn đằng sau một tỷ lệ nợ xấu không nhỏ, nhưng không dễ xử lý) mới có khả năng xử lý tận gốc nợ xấu của hệ thống.

Năm 2013, nhiều trong số những việc phải làm ngay là tăng cường hiệu quả giám sát của NHNN. Những bất ổn trong hệ thống ngân hàng nước ta thời gian qua cho thấy, việc giám sát của NHNN đối với các NHTM còn  bất cập. Điều này thể hiện ở việc các chính sách, quy định của NHNN chưa được thực thi nghiêm túc; một số NHTM đầu tư quá mức vào tài sản rủi ro cao (chứng khoán, bất động sản), vấn đề sở hữu chéo lòng vòng trong một số ngân hàng... Vì vậy, đầu tiên phải nhanh chóng lập lại kỷ cương trong hệ thống thông qua giám sát, buộc các NHTM này phải công bố thông tin minh bạch. Hoàn thiện các văn bản pháp luật tạo môi trường pháp lý cho việc giám sát của NHNN và các cơ quan có liên quan. Thứ hai, chọn cách thức phù hợp để sáp nhập, hợp nhất ngân hàng. Muốn vậy, NHNN phải làm rõ thực chất yếu kém, hạn chế của từng ngân hàng và toàn hệ thống, xây dựng những tiêu chí cho hoạt động ngân hàng hướng tới thông lệ quốc tế. Khi có tiêu chí rõ ràng, các ngân hàng sẽ có định hướng hoạt động chuyên sâu trong phạm vi nhất định, tại phân khúc đã lựa chọn. Thứ ba, đối với vấn đề nợ xấu, đang có những số liệu khác nhau, song mức độ nghiêm trọng của tình trạng nợ xấu là không thể phủ nhận. Đây là vấn đề hết sức phức tạp. Để xử lý nợ xấu, bên cạnh những nỗ lực của bản thân mỗi NHTM, thì rất cần có sự tham gia của nhiều bên. NHNN đã có đề án thành lập Công ty mua bán nợ quốc gia. Về lý thuyết, đây là một lối thoát khả thi, song trên thực tế, giải quyết được nợ xấu là cả một quá trình, bởi nó không chỉ phụ thuộc vào những nhân tố khách quan từ thị trường bên ngoài, mà còn phụ thuộc vào các nhân tố chủ quan từ cơ chế, chính sách, trình độ và đạo đức cán bộ được giao nhiệm vụ này.

Đối với tái cơ cấu DNNN, tập đoàn, tổng công ty, có thể thấy, tái cơ cấu ngân hàng không thể thành công nếu không tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp. Là nơi hấp thụ vốn của nền kinh tế và cũng là nơi tạo ra của cải vật chất cho xã hội, nên tháo gỡ nút thắt từ phía doanh nghiệp được coi mà giải pháp quan trọng nhất để cải thiện hoạt động tín dụng, góp phần phá băng thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán. Vì vậy, tái cơ cấu DNNN, tập đoàn, tổng công ty phải coi là nhiệm vụ cấp bách trước bối cảnh suy thoái kinh tế. Cụ thể là hoàn thiện thể chế quản lý DNNN, trong đó hoàn thiện quy định về thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN. Hoàn thiện mô hình quản lý vốn nhà nước tại DN có vốn nhà nước gắn với việc xây dựng luật quản lý sử dụng vốn nhà nước.

Phân loại DNNN, Nhà nước chỉ tập trung vào một số lĩnh vực then chốt cần nắm giữ. Đối với nhóm doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ thì cần tổ chức lại để nâng cao quản trị nội bộ, nguồn nhân lực, giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn nhà nước, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đối với số doanh nghiệp còn lại, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa phù hợp với từng loại doanh nghiệp, hoặc thực hiện giải thể, phá sản bắt buộc do thua lỗ kéo dài.

Ban hành cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả và công khai hoạt động của DNNN. Yêu cầu DNNN phải công khai thông tin như doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán. Khi DNNN được giao thực hiện chức năng hỗ trợ điều tiết vĩ mô, Nhà nước cần thực hiện cơ chế đặt hàng theo kinh tế thị trường, để tránh lẫn lộn giữa nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm vụ chính trị.

Một vấn đề lớn hiện nay là hàng tồn kho của doanh nghiệp, nếu không được giải quyết rốt ráo, thì doanh nghiệp không có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, nhu cầu có khả năng thanh toán của nền kinh tế, doanh nghiệp, dân cư không được cải thiện. Vì vậy, để giảm hàng tồn kho, cần tập trung các giải pháp giúp tăng tổng cầu. Theo đó, chấp nhận giảm giá, khuyến mại, áp dụng hàng rào kỹ thuật đối với một số hàng hóa; thực hiện bê tông hóa đường sá, thủy lợi ở nông thôn; liên kết kinh doanh. Chính phủ cần có những giải pháp quyết đoán tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh, tạo dựng niềm tin cho xã hội. Đó mới là mấu chốt của vấn đề.

Tình trạng tăng trưởng kinh tế giảm sút trong những năm gần đây đã được nhiều chuyên gia chỉ ra: do năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế suy giảm, mà nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ những bất cập trong cơ cấu kinh tế. Sự kém hiệu quả của DNNN, ngân hàng và đầu tư công là yếu tố cản trở tiềm năng tăng trưởng của nước ta trong hiện tại và tương lai gần. Vì vậy, khi đã coi năm 2013 là năm bản lề cho việc triển khai các chính sách tái cơ cấu nền kinh tế, thì phải có những hành động cụ thể, triển khai quyết liệt trong từng lĩnh vực, mới khắc phục được những bất ổn từ nội tại của nền kinh tế, hướng tới sự phát triển bền vững trong tương lai.

________________
Tài liệu tham khảo: (1). Tạp chí Tài chính, số 1,2 năm 2013; (2). Thời báo Kinh tế Sài Gòn, năm 2012, 2013; (3). Tài chính và đầu tư số 1,2 năm 2013; (4). Các đề án tái cơ cấu đã đã Chính phủ phê duyệt; (5). Báo cáo tổng kết của ngành Tài chính năm 2012.

1. Nghị quyết 13/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ thị trường.

2. Chỉ số ICOR khu vực KTNN đã giảm từ 12,4% năm 2009 xuống 9,15% năm 2011 và 8,6% năm 2012.

3. Nguồn: Cục Tài chính doanh nghiệp, Bộ Tài chính.