Khi lạm phát không còn là “con ngựa” bất kham

PGS., TS. Ngô Trí Long

(Tài chính) Diễn biến của lạm phát (thường thể hiện qua chỉ số giá tiêu dùng - CPI) ở Việt Nam thường rất nhạy cảm, không bền vững, dễ bị phá vỡ và đặc biệt, nếu bùng phát trở lại sẽ rất khó kiểm soát. Do vậy, mặc dù CPI năm 2013 chỉ tăng 6,04%, nhưng Chính phủ vẫn cần luôn “cảnh giác” để tránh rủi ro cho những năm tới.

Khi lạm phát không còn là “con ngựa” bất kham
CPI ở Việt Nam thường rất nhạy cảm, không bền vững, dễ bị phá vỡ và đặc biệt, nếu bùng phát trở lại sẽ rất khó kiểm soát. Nguồn: internet

Năm 2013: CPI tăng thấp nhất trong vòng 10 năm trở lại đây

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, CPI tháng 12/2013 tăng 0,51% so với tháng trước và tăng 6,04% so với tháng 12/2012. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2013 tăng 6,6% so với bình quân năm 2012, thấp hơn nhiều so với mức tăng 9,21% của năm 2012.

Nhìn lại diễn biến CPI năm 2013, có thể thấy nổi lên một số điểm đáng chú ý như sau:

Con số 6,04% là mức tăng khá thấp trong vòng 10 năm trở lại đây, đây là tín hiệu tốt để phấn đấu kiểm soát lạm phát trong năm 2014. Kết quả này cho thấy, các bộ, ngành và địa phương đã thực hiện tốt và khá quyết liệt vấn đề kiểm soát lạm phát, chống buôn lậu, hàng giả, hàng nhái.

CPI tăng cao vào quý I và quý III với mức tăng bình quân tháng là 0,8%; quý II và quý IV, CPI tương đối ổn định và tăng ở mức thấp, với bình quân tháng là 0,4%. Diễn biến giá cả theo tháng cho thấy, có 3 tháng tăng rất cao trên 1%, đó là tháng 1, tháng 2 và tháng 9, tháng 8 tăng cũng khá cao 0,83%. Tháng 1 và 2 giá tăng cao theo đúng chu kỳ tiêu dùng do ảnh hưởng của Tết Nguyên đán, còn tháng 9 tăng cao 1,09% lại do các quyết định hành chính, mà cụ thể là tăng học phí ở các cấp học, giá dịch vụ y tế tại một số tỉnh, thành cả nước. Xét số liệu lịch sử 3 năm gần đây, tháng 8 và 9 hàng năm thường có mức CPI tăng đột biến mạnh hơn các tháng trước đó do chịu ảnh hưởng của giá dịch vụ y tế và học phí.

Mặc dù mức tăng cao lên trong 3 tháng, nhưng tính chung cả năm, CPI cả năm 2013 chỉ tăng 6,04%, thấp nhất kể từ năm 2004 đến nay. Tuy CPI tăng, giảm không đều qua các tháng, nhưng hoàn toàn phù hợp với quy luật tiêu dùng và diễn biến theo “sức khỏe” của nền kinh tế.

Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng có chỉ số giá tháng 12/2013 so với tháng trước tăng cao nhất với mức tăng 2,31%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,57%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,49%. Trong rổ hàng hóa tính CPI, nhóm có quyền số lớn nhất là hàng ăn và dịch vụ ăn uống chiếm đến gần 40%, nhưng giá lại có xu hướng ổn định hoặc tăng nhưng rất thấp.

Một số nhóm hàng hóa hay có xu hướng tăng, giờ lại khá ổn định và thậm chí giảm, như: nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng do xu thế thị trường bất động sản hiện trầm lắng; nhóm giao thông bị ảnh hưởng trực tiếp của giá xăng dầu, 12 tháng có 5 lần tăng (đợt tăng giá xăng dầu ngày 18/12 vừa qua chưa ảnh hưởng đến giá cả tháng 12/2013) và 6 lần giảm, đẩy giá xăng hiện nay đang cao hơn 1.060 đồng/lít so với thời điểm đầu năm (tăng 4,48%), song nhìn chung vẫn ảnh hưởng ít đến CPI.

Kể từ năm 2007 đến năm 2012, CPI lặp lại một vòng luẩn quẩn “2 năm tăng, 1  năm giảm”. Điều này cho thấy, những năm qua chúng ta mới thành công về kiềm chế lạm phát trong ngắn hạn, chưa thành công trong trung và dài hạn. Nhưng, CPI năm nay có tốc độ tăng tương đối thấp so với tháng 12/2012 và thấp hơn nhiều trong vòng gần 10 năm. Như vậy, CPI năm 2013 đã không lặp lại vòng luẩn quẩn “2 cao, 1 thấp” như trên.

Nguyên nhân do đâu?

Một là, các cấp, các ngành trong cả nước đã tích cực triển khai thực hiện các giải pháp trong các Nghị quyết số 01/NQ-CP, số 02/NQ-CP, ngày 7/1/2013 của Chính phủ. Khác với những lần trước, khi lạm phát “chớm” giảm, thì Chính phủ lại nới lỏng chính sách tiền tệ, còn 2 năm nay đã thực hiện nhất quán trong thời gian dài nên năm 2012 và 2013, chúng ta đã duy trì được lạm phát thấp.

Hai là, do lạm phát toàn cầu có xu hướng giảm, chủ yếu do giá lương thực, giá nhiên liệu thế giới không có biến động nhiều, điều này đã tác động làm giảm giá hàng hóa qua các kênh nhập khẩu.

Ba là, giá một số mặt hàng và dịch vụ do Nhà nước quản lý được điều chỉnh tăng theo kế hoạch và theo cơ chế thị trường. Cụ thể: giá dịch vụ y tế, giáo dục (học phí phổ thông công lập) đã tăng lên làm ảnh hưởng đến chỉ số giá của các tỉnh và chỉ số chung của cả nước. Trong năm có 17 tỉnh, thành phố điều chỉnh giá dịch vụ y tế làm cho CPI của nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 18,97% so với tháng 12 năm trước, đóng góp vào chỉ số chung cả nước gần 1,1%; các địa phương tiếp tục thực hiện lộ trình tăng học phí làm làm CPI nhóm giáo dục tăng 11,71%, đóng góp vào chỉ số chung cả nước tăng khoảng gần 0,7%; giá xăng dầu được điều chỉnh tăng/giảm và cả năm tăng 2,18%, góp vào CPI chung cả nước mức tăng 0,08%; giá điện điều chỉnh tăng 10%, đóng góp vào CPI chung khoảng 0,25%. Bên cạnh đó, giá gas cả năm tăng gần 5%, đóng góp vào CPI cả nước với mức tăng 0,08%; 

Bốn là, CPI thường chịu tác động của 4 nhóm yếu tố: chi phí đẩy, cầu kéo, tiền tệ - tín dụng và tâm lý. Về các yếu tố này, trong năm qua cho thấy, nhiều khoản thuế đã được cắt giảm, giãn, hoãn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm bớt chi phí, giảm giá hàng hoá, dịch vụ; lãi suất cho vay của ngân hàng đã giảm khá nhanh; tỷ giá ổn định làm cho giá hàng nhập khẩu tính bằng USD giảm. Cụ thể:

Trong năm qua, tổng cầu vẫn yếu do tỷ lệ vốn đầu tư/GDP giảm (vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2013 theo giá hiện hành ước tính đạt 1091,1 nghìn tỷ đồng, tuy đã tăng 8% so với năm trước, nhưng cũng chỉ bằng 30,4% GDP, thấp hơn nhiều so với thời kỳ 2006 – 2010 là 39,2% bình quân năm).

Dù sức mua đã được cải thiện trong nhiều tháng nay, nhưng mức tăng vẫn chậm. Trong bối cảnh khó khăn chung, các doanh nghiệp hoạt động lĩnh vực thương mại, dịch vụ và xuất khẩu liên tục đối mặt với nhiều thách thức gây ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất, kinh doanh. Hoạt động bán lẻ từ năm 2011 đến nay nhìn chung chậm lại trên tất cả các kênh truyền thống cũng như siêu thị. Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2013 ước tính đạt 2.618 nghìn tỷ đồng, tăng 12,6% so với năm 2012 và là mức tăng thấp nhất trong vòng 4 năm trở lại đây.

Về tiền tệ - tín dụng, áp lực đối với lạm phát đang có xu hướng giảm, như: tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng cũng đã giảm nhanh trong mấy năm qua (từ 33,3%/năm trong thời kỳ 2006 - 2010, xuống còn 14,45% năm 2011, còn 8,85% trong năm 2012. Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình trong Hội nghị tổng kết ngành Ngân hàng trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, đến ngày 27/12/2013, tăng trưởng tín dụng tăng 11% so với cuối năm 2012 và dự kiến sẽ đạt mục tiêu như kế hoạch đặt ra là khoảng 12%; thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại được cải thiện, đảm bảo khả năng thanh toán và chi trả của hệ thống; tỷ giá ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại hối tăng cao.

Hệ số giữa tốc độ tăng dư nợ tín dụng và tốc độ tăng GDP đã giảm mạnh trong thời gian qua (thời kỳ 2006 - 2010 là 5,3 lần, năm 2011 là 2,3 lần, năm 2012 là 1,7 lần, ước năm 2013 là 2,2 lần). Mặc dù có những tín hiệu tốt, nhưng hoạt động ngân hàng vẫn đối mặt với nhiều thách thức; tỷ lệ nợ xấu tuy có giảm, nhưng vẫn ở mức cao; chất lượng tín dụng chưa thực sự được cải thiện; nợ xấu chưa được phân loại và đánh giá đầy đủ, chính xác.

Trong khi đó, tâm lý kỳ vọng lạm phát không bị áp lực lớn như trước, khi giá vàng giảm, giá USD ổn định, chứng khoán vẫn chưa vượt khỏi mốc 500 một cách bền vững, bất động sản chưa thoát đáy để đi lên…

Như vậy, do kinh tế khó khăn với những tác động không mong muốn đã dẫn đến lạm phát thấp. CPI năm 2013 tăng thấp, về mặt con số, đó là những niềm vui của người tiêu dùng, của toàn xã hội. Còn đối với các nhà hoạch định chính sách, điều hành kinh tế vĩ mô yên tâm hơn đối với vấn đề kiểm soát lạm phát, để có điều kiện đẩy mạnh thực hiện các chính sách khác.

Tuy nhiên, việc kiềm chế lạm phát thành công trong gần 2 năm qua, bên cạnh tác động tích cực, cũng đã làm phát sinh các hiệu ứng phụ. Thắt chặt chính sách tiền tệ đã khiến sức mua của người tiêu dùng yếu đi, đầu tư của doanh nghiệp và chi tiêu của Chính phủ bị thu hẹp. Chú trọng quá đến mục tiêu kiểm soát lạm phát dẫn đến việc kinh tế suy giảm, trong tương lai có thể gây mất cân đối cung - cầu hàng hóa và tạo ra lạm phát do thiếu cung.

Người viết vẫn băn khoăn rằng, cách giảm được lạm phát như vừa qua có thể là không bền vững, không mong muốn. Nhiều ý kiến cũng cho rằng, chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa quá mức thời gian qua đã khiến nền kinh tế suy yếu. Nhìn vào chỉ tiêu kinh tế vĩ mô năm 2013 cho thấy, nền kinh tế mới bước đầu thoát khỏi trì trệ, trong bối cảnh sức khỏe của nền kinh tế còn nhiều lo ngại. Nhiều khó khăn thách thức của nền kinh tế chưa vượt qua được, nên các yếu tố không mong muốn trên đây chắc chắn sẽ còn tiếp tục tác động mạnh đến mặt bằng giá cả thị trường trong năm 2014.

Dự báo CPI năm 2014 và một số kiến nghị, giải pháp

Về tình hình năm 2014, những khó khăn, thách thức của nền kinh tế về cơ bản vẫn còn, kinh tế thế giới dự báo vẫn còn nhiều khó khăn. Mặc dù CPI đang trong tầm kiểm soát, sức mua yếu, nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ tăng giá. Bởi vậy, trong năm 2014, cần xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kiềm chế lạm phát và tăng trưởng. Nếu không có giải pháp phù hợp thì tăng trưởng vẫn sẽ thấp và kinh tế nước ta sẽ khó thoát đáy vào cuối năm 2014. Lạm phát năm 2014 cũng sẽ đối mặt với nhiều áp lực hơn nếu có biến động mạnh trong điều hành chính sách vĩ mô, nhất là khi điều chỉnh tăng đầu tư công, tăng dư nợ tín dụng, tiền lương, giá điện, than và dịch vụ công. Bởi, việc kiềm chế lạm phát hiện nay chưa thật bền vững, về nguyên nhân sâu xa, yếu tố tiềm ẩn của lạm phát là hiệu quả đầu tư và năng suất lao động còn thấp, chưa được cải thiện nhiều và lạm phát sẽ có thể quay trở lại bất kể lúc nào có các cú sốc từ bên trong và bên ngoài.

Để từng bước vượt qua những khó khăn, thách thức, thực hiện tốt mục tiêu kiểm soát lạm phát (ở mức 7%) và đảm bảo tăng trưởng (khoảng 5,8%) năm 2014 do Quốc hội đặt ra, theo tôi, các ngành, các cấp, các địa phương cần thực hiện tốt những giải pháp sau chủ yếu sau:

Thứ nhất, tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, chính sách tài khóa chặt chẽ. Điều hành lãi suất phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát; Tăng dư nợ tín dụng phù hợp và bảo đảm chất lượng tín dụng; Điều hành hiệu quả tỷ giá, thị trường ngoại hối, thị trường vàng, bảo đảm giá trị đồng tiền Việt Nam; Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu; Tăng dự trữ ngoại hối; Thúc đẩy phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán; Tăng cường quản lý ngân sách nhà nước, tập trung chống thất thu, thực hiện triệt để tiết kiệm, kiên quyết cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết. Tiếp tục thực hiện cơ chế giá thị trường đối với các mặt hàng, dịch vụ công thiết yếu, như: điện, than, xăng dầu, nước, dịch vụ y tế... theo lộ trình phù hợp, bảo đảm yêu cầu kiểm soát lạm phát, công khai minh bạch và có hỗ trợ cho các đối tượng chính sách, người nghèo. Tăng cường quản lý thị trường, giá cả.

Thứ hai, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Chính phủ cần có giải pháp cụ thể nhằm giúp doanh nghiệp chuẩn bị và nâng cao tính cạnh tranh trong môi trường kinh doanh ngày càng cởi mở và tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế. Mặc dù các bước cải cách doanh nghiệp nhà nước đã được thực hiện từ nhiều năm, nhưng tốc độ còn chậm và hiệu quả còn thấp. Vì thế, các chương trình thoái vốn đầu tư ngoài ngành, cổ phần hóa doanh nghiệp cần phải được Chính phủ chỉ đạo và thực hiện nhanh và mạnh hơn trong năm 2014. Cùng với đó, giải quyết nhanh và hiệu quả hơn vấn đề nợ xấu, hoàn thành cơ bản việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, khơi thông dòng vốn tín dụng cho doanh nghiệp.

Thứ ba, thúc đẩy phát triển thị trường trong nước và tiếp tục khai thác tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa mang lại hiệu quả cao cho nền kinh tế. Trong những năm tới, cần xác định đầy đủ thách thức và lợi thế khi Việt Nam gia nhập Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) để từ đó tập trung đầu tư phát triển mạnh những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh với thuế suất thấp nhất.

Thứ tư, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 30/CT-TTg, ngày 26/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Các cơ quan quản lý cần kiểm tra và rà soát kỹ các quy định, văn bản trước khi ban hành để tránh có lỗ hổng gây thất thu thuế. Bên cạnh đó, phải tăng cường kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm đối với các doanh nghiệp có hành vi chuyển giá gây thất thu cho ngân sách nhà nước, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế. Thực hiện tiết kiệm chi tiêu sao cho phù hợp với tình hình khó khăn hiện nay theo hướng ưu tiên cho các chương trình giảm nghèo, nông thôn mới. Bội chi ngân sách cần được kiểm soát chặt chẽ, nâng bội chi phải đi đôi với giám sát tính hiệu quả của đầu tư công vì đây là nguyên nhân cơ bản nhất gây ra lạm phát ở Việt Nam. Rà soát những khoản chi thường xuyên không hợp lý, gây lãng phí. Bảo đảm tính hiệu quả và nâng cao chất lượng các khoản chi trong chi cho phúc lợi xã hội.

Thứ năm, việc điều chỉnh giá các mặt hàng cơ bản và dịch vụ công cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành liên quan và lộ trình hợp lý về thời điểm tăng giá, mức tăng giá... Thực hiện nghiêm Chỉ thị số 25/CT-TTg, ngày 05/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác quản lý điều hành nhằm bình ổn giá cả thị trường, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong dịp Tết Giáp Ngọ 2014.

Thứ sáu, đổi mới tư duy và nâng cao nhận thức về phối hợp trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô. Theo đó, cần tăng cường sự phối hợp công tác quản lý giữa các bộ - thành viên của Chính phủ để tạo sự đồng thuận cao trong xã hội, nhất là việc điều hành theo Quyết định 1317/QĐ-TTg, ngày 6/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án cải cách cơ chế phối hợp trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và Ngân hàng Nhà nước xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện sớm Quy chế phối hợp trong quản lý và điều hành trong các lĩnh vực: tài khóa, tiền tệ, tín dụng, đầu tư, thương mại, giá cả...