Kinh tế năm 2014: Vấn đề chỉ còn là hành động

Tư Giang

(Tài chính) Nền kinh tế năm 2014 sẽ có được những xung lực mới để tiến về phía trước, nếu những tư duy cải cách của người đứng đầu Chính phủ được thực thi một đầy đủ và quyết liệt.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong bản thông điệp đầu năm đã mô tả rất xác thực, xúc tích mô thức cải cách kinh tế mà Việt Nam sẽ theo đuổi: Thực hiện giá thị trường với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu và đảm bảo cạnh tranh bình đẳng. Hai vấn đề có mối tương quan chặt chẽ với nhau này đều gắn với các doanh nghiệp nhà nước, khu vực được cho là một nhân tố quan trọng góp phần làm lộ rõ hơn yếu huyệt của nền kinh tế Việt Nam khi kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng những năm qua.

Lựa chọn của ông vừa trúng, vừa đúng. Nếu Nhà nước chỉ chú trọng đến “thực hiện giá thị trường”, nói thẳng ra là tăng giá hàng hóa, dịch vụ thiết yếu mà không đi kèm cải cách cơ cấu thị trường để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh một cách bình đẳng thì chỉ mang lại lợi ích cho các “ông lớn”. Lúc đó, công bằng và tiến bộ xã hội – như Thủ tướng hướng tới trong bài viết – khó mà thực hiện được khi người dân phải tiếp tục móc hầu bao nhiều hơn để nuôi các doanh nghiệp hoạt động theo kiểu “lời ăn, lỗ dân chịu”.

Thủ tướng khẳng định: “Phải thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với tất cả các hàng hóa, dịch vụ. Những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu mà Nhà nước đang định giá phải tính đúng, tính đủ chi phí, công khai minh bạch các yếu tố hình thành giá và kiên định thực hiện giá thị trường theo lộ trình phù hợp…”. Trên thực tế, Nhà nước đã dần từng bước “thị trường hóa” giá cả các hàng hóa thiết yếu như: giá than, giá điện, giá xăng và giá dịch vụ y tế, giáo dục… Những bước đi này nhằm tránh tình trạng Nhà nước phải bao cấp cho các doanh nghiệp nhà nước độc quyền như Tổng công ty Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) hay Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN).

Nhưng, thật khó để “tính đúng, tính đủ chi phí và công khai minh bạch giá”, như Thủ tướng yêu cầu. Tổng giám đốc EVN Phạm Lê Thanh nói tại hội nghị tổng kết ngành năm 2013: “Khó mà nói giá điện hiện nay bằng bao nhiêu phần trăm giá thị trường”. Lời “thú nhận” của vị Tổng giám đốc EVN cho thấy khoảng cách giữa mong muốn và yêu cầu của Thủ tướng với những gì diễn ra trên thực tế còn khá xa nhau.

Năm 2012 dù có lãi nhờ tăng giá điện, nhưng theo Ngân hàng Nhà nước thì EVN vẫn đang nợ ngân hàng tới 144.000 tỷ đồng. Để giải quyết món nợ khổng lồ này, không có cách nào khác là phải tăng giá sản phẩm đầu ra – điện. Vĩ lẽ đó, EVN đã được phép tăng giá tới 22% trong vòng 2 năm tới.

Câu chuyện của EVN cho thấy, việc thị trường hóa giá cả các hàng hóa thiết yếu đã được khởi động, song nếu thông tin không được minh bạch thì không thể thuyết phục được người dân và xã hội để từ đó có được sự đồng thuận của họ. Nhưng, câu chuyện giá cả còn phức tạp hơn nhiều. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, chỉ còn 4 loại giá cả chưa được “thị trường hóa” đầy đủ là: giá năng lượng (xăng, dầu, điện, than), giá tiền (lãi suất, tỉ giá), giá đất đai và tiền lương. Cả 4 loại giá này chỉ chiếm số ít trong hàng ngàn loại giá khác đã được thị trường quyết định, nhưng lại vô cùng quan trọng, ảnh hưởng tới cuộc sống của toàn bộ người dân và sản xuất của doanh nghiệp.

Nhà nước thường phải can thiệp tới giá cả 4 mặt hàng này bằng mệnh lệnh hành chính là chính. Quy tắc phi thị trường này đã từng là cơ sở lập luận của một lãnh đạo EVN khi ông biện minh cho việc đầu tư ngoài ngành, rằng: “Chúng tôi phải lấy ngắn nuôi dài”. EVN, Vinacomin và nhiều tập đoàn kinh tế khác sẽ tránh được điều này khi giá bán sản phẩm của họ đủ bù đắp chi phí sản xuất.

Về trụ cột thứ hai, Thủ tướng khẳng định: “Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phải hoạt động theo cơ chế thị trường. Xóa bỏ tình trạng độc quyền doanh nghiệp và những cơ chế chính sách tạo ra bất bình đẳng trong kinh doanh, nhất là trong tiếp cận các nguồn lực. Phải kiên quyết thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa, kể cả các tập đoàn kinh tế; thoái vốn đầu tư ngoài ngành và bán phần vốn mà Nhà nước không cần nắm giữ theo nguyên tắc thị trường, bao gồm cả doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả. Doanh nghiệp nhà nước chỉ tập trung vào lĩnh vực then chốt, thiết yếu, địa bàn quan trọng và quốc phòng an ninh. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh với nhiệm vụ chính trị, công ích….”.

Lý giải cho điều này Thủ tướng viết: “Chỉ có như vậy, chúng ta mới tạo được môi trường cạnh tranh bình đẳng và nâng cao được hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, tăng cường sức mạnh của kinh tế nhà nước, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tái cơ cấu nền kinh tế”. Theo các nhà phân tích, thông điệp trên của Thủ tướng đã bao quát toàn bộ những vấn đề khó khăn nhất mà quá trình cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước đang gặp phải. Lâu nay, tiến trình này coi như lâm vào ngõ cụt, nhất là khi khu vực doanh nghiệp này đã bành trướng quá đà trên nhiều lĩnh vực kinh tế.

Giờ đây lộ trình cải cách này đã được Thủ tướng nêu rõ tại một hội nghị giữa Chính phủ và các nhà tài trợ quốc tế gần đây: “Cổ phần hóa khoảng 500 doanh nghiệp nhà nước, trong đó cổ phần hóa 1 trong 8 tập đoàn kinh tế, 5/10 tổng công ty 91 và hầu hết tổng công ty 90 (trong tổng số 87 tổng công ty) và bán tiếp cổ phần 4/5 ngân hàng thương mại nhà nước đã cổ phần hóa, tạo đà cho việc hoàn thành cổ phần hóa vào năm 2020″.

Dù kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, như Hiến pháp đã xác quyết, thì doanh nghiệp nhà nước vẫn phải cạnh tranh bình đẳng như doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Cơ sở lý luận đã có. Quyết tâm của người đứng đầu Chính phủ cũng đã được thể hiện rất rõ qua bản thông điệp đầu năm của ông. Vấn đề còn lại nằm ở khâu thực hiện. Trong dân vẫn thường lưu truyền câu nói: “ Trên bảo, dưới không nghe”. Mong rằng câu nói đó không ứng nghiệm trong tình huống này. 


Trình bày trước Quốc hội tháng 10 Thủ tướng cho biết: “Doanh nghiệp Nhà nước đóng góp khoảng 30% thu ngân sách Nhà nước và trên 33% GDP. Trên 80% doanh nghiệp Nhà nước có lãi và 11,7% doanh nghiệp lỗ. Năm 2012, vốn chủ sở hữu tăng 26% so với năm 2011; tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu là 16,37%, trong đó của các tập đoàn, tổng công ty là 16,94%. Tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu là 1,52 lần, trong đó của các tập đoàn, tổng công ty là 1,46 lần, nằm trong giới hạn cho phép là 3 lần.