Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam: Bước chuyển lớn từ đường lối, chính sách

ThS. Trần Thị Phương Hạnh, ThS. Trần Văn Giảng - Đại học Kinh tế Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên

Từ khi đổi mới (1986) đến nay, quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân luôn nhất quán và ngày càng được hoàn thiện qua mỗi giai đoạn phát triển. Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định: Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Thành phần kinh tế này được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Đây là kết quả của cả quá trình đổi mới và phát triển nhận thức của Đảng về thành phần kinh tế này.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Bước phát triển trong đường lối, chính sách về kinh tế tư nhân

Số liệu thống kê của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ương cho thấy, sau hơn 30 năm đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta ngày càng phát triển với gần 620 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, đóng góp tỷ trọng trong GDP khoảng 40%, khoảng 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, gần 80% tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ, khoảng 64% tổng lượng hàng hóa vận chuyển.

Khu vực kinh tế này thu hút trên 51% lực lượng lao động cả nước và tạo khoảng 1,2 triệu việc làm cho người lao động mỗi năm... Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã chứng minh quan điểm, đường lối nhất quán của Đảng ta từ khi từ khi đổi mới đến nay.

Các quan điểm của Đảng về kinh tế tư nhân và phát triển kinh tế tư nhân thể hiện tập trung trong các cương lĩnh xây dựng đất nước, văn kiện Đại hội Đảng, nghị quyết chuyên đề của Trung ương và trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, chủ trương nhất quán là phát triển kinh tế nhiều thành phần và khẳng định: Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân.

Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về các thành phần kinh tế nói chung, về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân nói riêng có một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, được bổ sung và hoàn thiện qua mỗi giai đoạn phát triển kinh tế đất nước.

Cụ thể từ năm 1986, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nhiều thành phần chính thức được thừa nhận trong văn kiện Đảng. Đại hội VI (12/1986) khẳng định, cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế; Củng cố thành phần kinh tế XHCN bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn diện.

Theo đó, cần xóa bỏ những thành kiến thiên lệch, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế XHCN… Trong văn kiện Đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Đại hội VI), sự tồn tại và hoạt động của các thành phần kinh tế phi XHCN đã được Đảng ta thừa nhận dưới sự chỉ đạo, dẫn dắt của thành phần kinh tế XHCN.

Tuy nhiên, thời điểm đó, kinh tế tư nhân nói riêng, các thành phần kinh tế phi XHCN nói chung vẫn được coi là thành phần phải “cải tạo”, bằng những hình thức và bước đi thích hợp, tránh chủ quan nóng vội và cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác.

“Chính sách kinh tế nhiều thành phần” tiếp tục được Bộ Chính trị khóa VI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI nhất quán thực hiện và khẳng định tại Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 15/7/1988. Ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị khóa VI ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 5/4/1988, bước khởi đầu quan trọng đối với kinh tế tư nhân nước ta, mở đường cho những bước đột phá sau này.

Đảng ta xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó đổi mới cơ bản cách thức quản lý hợp tác xã nông nghiệp, tạo động lực cho kinh tế tư nhân trong nông nghiệp hồi phục và phát triển năng động, bước đầu chuyển sang sản xuất hàng hóa.

Nhất quán quan điểm Đại hội VI, Đại hội VII (tháng 6/1991) thể hiện quan điểm rõ ràng về việc khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển. Văn kiện Đại hội VII khẳng định: Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước và mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp.

Theo Văn kiện Đại hội VII, kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm. Như vậy, từ chỗ coi kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế có thể sử dụng nhưng cần “cải tạo” bằng những bước đi thích hợp, Đại hội VII đã thực sự coi kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế độc lập, có tiềm năng phát triển và đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước.

Khẳng định chính sách kinh tế nhiều thành phần đã góp phần đưa đến những thành tựu kinh tế - xã hội quan trọng qua 10 năm đổi mới, Văn kiện Đại hội VIII (tháng 6/1996) tiếp tục nhất quán, lâu dài chính sách kinh tế tư nhân nhiều thành phần, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước khai thác các tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển; đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh, đồng thời cần tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài.

Vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân tiếp tục được nâng tầm trong Văn kiện Đại hội IX (tháng 1/2001), Đảng ta khẳng định, kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm.

Như vậy, từ Đại hội VI đến Đại hội IX quan điểm của Đảng đã có bước nhìn nhận mới về kinh tế tư nhân và đề ra định hướng: Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh liên kết với nhau với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước.

Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội IX, Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân” đã được Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX thông qua vào năm 2002. Đây là lần đầu tiên Đảng ta có một Nghị quyết chuyên đề về kinh tế tư nhân.

Bên cạnh việc khẳng định kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX đã đưa ra những đánh giá xác đáng về đóng góp của kinh tế tư nhân, đó là: đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước.

Đồng thời, chỉ rõ những hạn chế, yếu kém của kinh tế tư nhân nước ta như quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu, ít đầu tư vào lĩnh vực sản xuất… Từ đó, thống nhất đề ra các giải pháp cụ thể nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý và tâm lý xã hội để các doanh nghiệp của tư nhân phát triển rộng rãi trong những ngành, nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm, không hạn chế về quy mô, nhất là trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước.

Nối tiếp bước tiến trong tư duy của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân, Văn kiện Đại hội X (tháng 4/2006) đã chính thức đề cập tới vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân nhằm huy động, phát huy tiềm năng của mọi người dân, trong đó có đội ngũ đảng viên, tạo động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Hiện thực hóa quan điểm này, Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã thảo luận và thông qua “Quy định đảng viên làm kinh tế tư nhân”. Quy định này đã mở đường cho đảng viên được kinh doanh hợp pháp.

Với nhận thức về vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt và ý nghĩa chiến lược phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng tiếp tục xác định chủ trương là phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế tại Đại hội XI (tháng 1/2011).

Sự phát triển mới về nhận thức của Đảng đối với kinh tế tư nhân tại Đại hội XII (tháng 12/2016) đã chính thức xác nhận: Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế. Điểm mới đáng quan tâm ở Đại hội XII so với các kỳ Đại hội trước là sự khẳng định mạnh mẽ, dứt khoát hơn quan điểm của Đảng khi coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế.

Văn kiện Đại hội XII nhấn mạnh việc: Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước.

Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã ban hành Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân, với mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng trong tổng sản phẩm nội địa (GDP).

Nghị quyết là một bước tiến mới, tạo động lực thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân và toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, thể hiện sự tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế của Đảng để phù hợp với thực tiễn phát triển của nền kinh tế sau 30 năm đổi mới.

Tiếp tục cải cách cơ chế, chính sách để phát triển kinh tế tư nhân

Theo nhiều điều tra, nghiên cứu thì kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay vẫn chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế và trong đó chủ yếu vẫn là kinh tế hộ gia đình, cá thể (chiếm khoảng 95% tổng số các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tư nhân) và doanh nghiệp có quy mô nhỏ và siêu nhỏ (trên 90% có mức vốn dưới 1 tỷ đồng), trình độ công nghệ thấp và chậm đổi mới, năng lực tài chính, năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh còn thấp, trình độ quản trị, tính liên kết còn yếu; khả năng tham gia chuỗi giá trị trong nước và quốc tế còn thấp.

Sự phát triển kinh tế tư nhân đang rơi vào tình trạng mất cân đối, chỉ có 1% doanh nghiệp  hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp tỷ lệ đầu tư vào công nghiệp hóa nông nghiệp còn rất thấp.

Để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII và thực hiện chủ trương, đường lối Đảng ta đã nhất quán qua các kỳ Đại hội từ Đại hội VI đến nay, cần quan tâm chú ý một số vấn đề trọng tâm sau:

Thứ nhất, thực tế hiện nay, vẫn còn nhiều định kiến về kinh tế tư nhân, nhất là ở cấp cơ sở, vì thế cơ quan nhà nước các cấp theo thẩm quyền cần khẩn trương ban hành khung pháp lý, cơ chế, chính sách nhằm cụ thể hóa định hướng chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân theo Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII và Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Trong đó, cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp để đảm bảo chính sách hỗ trợ kinh tế tư nhân một cách thực chất thông qua các chính sách hỗ trợ về lãi suất, ưu đãi về thuế, đất đai, giải phóng mặt bằng...; Tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển, đổi mới công nghệ và các giải pháp tài chính, tín dụng; Thực hiện công khai minh bạch các quy hoạch, kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, thúc đẩy liên kết tích cực giữa các ngành kinh tế, các chủ thể kinh tế và các không gian kinh tế; Khắc phục triệt để tình trạng các doanh nghiệp lớn chi phối, lấn át các doanh nghiệp nhỏ trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội kinh tế.

Các cơ chế, chính sách phải tích hợp với nhau và về tổng thể khung pháp lý phải hình thành nên một trật tự sản xuất kinh doanh “mới hơn, có độ mở hơn”với các quan hệ đa dạng, nhiều chiều hơn giữa các chủ thể khác nhau, tôn trọng nguyên tắc thị trường, tôn trọng pháp luật và để cạnh tranh lành mạnh thực sự trở thành động lực chính yếu giữa các doanh nghiệp.

Thứ hai, thực hiện triệt để cải cách hành chính, tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, bộ, ngành và chính quyền địa phương theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân.

Thông qua việc xây dựng cơ chế “một cửa điện tử” thống nhất đầu mối tiếp nhận và xử lý hồ sơ; hướng dẫn, giải quyết thủ tục hành chính. Trong đó, tập trung cải thiện việc tiếp cận các yếu tố đầu vào cho sản xuất kinh doanh; Giảm thời gian, chi phí tuân thủ các thủ tục về thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, xây dựng; Rút ngắn thời gian đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản.

Thứ ba, cần hoàn thiện pháp luật về chế độ sở hữu rõ ràng kể cả đối với bất động sản, ruộng đất..., góp phần ngăn ngừa xung đột trong xã hội, phân bổ nguồn lực hiệu quả. Còn rất nhiều rào cản cần phải loại bỏ càng sớm càng tốt.

Nếu còn có sự thiếu minh bạch về thay đổi cơ chế, chính sách, vẫn còn những doanh nghiệp bị đổ vỡ “oan”, chừng nào còn tồn tại sự chi phối của “lợi ích nhóm”, thì các doanh nghiệp tư nhân còn bị phân biệt đối xử nếu không chấp nhận sự chi phối của “nhóm” đó, chừng nào độc quyền nhà nước trao cho các doanh nghiệp nhà nước bị lạm dụng để biến thành độc quyền doanh nghiệp thì chừng đó các chủ thể thuộc kinh tế tư nhân còn gặp khó khăn và phải mất thêm nhiều chi phí khi tiếp cận các hàng hóa, dịch vụ công và các nguồn lực, các cơ hội khác...

Hay như hàng nghìn “giấy phép con” tồn tại cho tới nay dù đã hết hiệu lực vẫn chưa được xóa bỏ. Hiện tại, vẫn còn rất ít những đạo luật có thể thực thi mà không cần hoặc cần rất ít các nghị định, thông tư, hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước. Tính chất chung chung của các đạo luật và sự thiếu chặt chẽ, đồng bộ của các văn bản dưới luật là mảnh đất màu mỡ nảy sinh các loại lực cản cho kinh tế tư nhân vươn lên tương xứng với tiềm năng của mình

Thứ tư, về nguồn nhân lực, có thể thấy, việc đào tạo nguồn nhân lực của chúng ta hiện nay có rất nhiều vấn đề, câu chuyện “thầy nhiều hơn thợ”, “thiếu cả thầy và thợ” là báo động đáng quan ngại. Vì thế, cần đẩy mạnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản trị.

Trong đó, chú trọng chất lượng, hiệu quả đào tạo; Đào tạo có trọng tâm, trọng điểm và ưu tiên đào tạo nhân lực cho khu vực kinh tế tư nhân trong một số ngành, lĩnh vực theo đặt hàng của doanh nghiệp. Các chương trình hướng nghiệp, giáo dục kinh doanh phải được giới thiệu và phổ biến từ bậc học phổ thông.

Thứ năm, giải quyết kịp thời các vướng mắc, khiếu nại, kiến nghị của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh; Tăng cường tổ chức hội nghị tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, công bố số điện thoại đường dây nóng, hộp thư điện tử để tiếp nhận và trả lời, giải đáp những vướng mắc kịp thời của doanh nghiệp ở các cấp, ngành.

Nhà nước cần sớm ban hành Luật Hội nhằm thúc đẩy phát triển các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề với sự tham gia sâu rộng của các doanh nghiệp sở hữu tư nhân.

Với sự quan tâm thiết thực, sự đồng hành hỗ trợ của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, cùng với năng lực nội sinh, sự đồng lòng chung sức của doanh nhân, kinh tế tư nhân hoàn toàn có đầy đủ cơ sở để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh doanh, xứng đáng với vai trò, vị thế và tiềm năng của kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII.       

Tài liệu tham khảo:

1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016;

2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011;

3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010;

4. Văn kiện Đảng toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991;

5. Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 1/11/2016, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.