Thúc đẩy ứng dụng kế toán xanh ở Việt Nam

ThS. Nguyễn Thị Hải Vân - Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp

Nhằm phát triển kinh tế nhanh, bền vững, bảo vệ tốt môi trường và giải quyết hài hòa các vấn đề kinh tế, môi trường và xã hội, thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều quy định nhằm hạn chế sự khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội, hạn chế tới mức tối đa các hành vi vi phạm, hủy hoại môi trường, gây ô nhiễm môi trường. Kế toán xanh được coi là một công cụ quan trọng liên quan đến các khía cạnh ảnh hưởng của môi trường tự nhiên đối với nền kinh tế và được xem là hướng chuyển đổi theo phương thức phát triển bền vững, hướng tới phát triển nền kinh tế xanh mà Việt Nam đang hướng tới.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Khái quát về kế toán xanh

Theo các chuyên gia tài chính – kế toán, kế toán xanh có thể hiểu là một hệ thống kế toán hiện đại và toàn diện nhằm ghi chép, tổng hợp và lập báo cáo cho một tổ chức, để phản ánh đầy đủ các nội dung về tài sản, nợ phải trả, vốn đầu tư, nguồn thu và các khoản chi cho môi trường xanh của quốc gia.

Kế toán xanh được coi là một công cụ quan trọng liên quan đến các khía cạnh ảnh hưởng của môi trường tự nhiên đối với nền kinh tế và được xem là hướng chuyển đổi theo phương thức phát triển bền vững, hướng tới phát triển nền kinh tế xanh. Đây cũng là hướng tiếp cận mới và lâu dài, phù hợp với xu thế phát triển chung trên thế giới.

Theo Wikipedia, kế toán xanh là phương thức kế toán cố gắng tính toán các chi phí môi trường vào kết quả tài chính trong hoạt động của doanh nghiệp (DN).

Quan điểm này lập luận rằng, tổng sản phẩm trong nước thường “bỏ qua” yếu tố môi trường, do đó các nhà hoạch định chính sách cần một mô hình mới có sự kết hợp với kế toán xanh. Mục đích chính của kế toán xanh là giúp các DN hiểu và quản lý tiềm năng giữa các mục tiêu kinh tế truyền thống và mục tiêu môi trường, từ đó hướng đến mục tiêu bền vững.

Một số nghiên cứu cho rằng, kế toán xanh được chia thành nhiều góc độ khác nhau, bao gồm 5 nội dung chính: Kế toán tài chính môi trường; Kế toán quản trị môi trường; Tài chính môi trường; Pháp luật về môi trường; Đạo đức và quan hệ với cộng đồng xã hội.

Dù là một lĩnh vực hoàn toàn mới, song kế toán xanh sớm đạt được những kết quả tích cực vì tầm quan trọng mà nó mang lại. Ngoài việc cung cấp thông tin, kiểm tra lợi nhuận, doanh thu và chi phí môi trường của DN, kế toán xanh còn là một lĩnh vực đang phát triển tập trung hoặc cung cấp cho kế toán tác động môi trường, một số yếu tố có thể gây ra cho một DN hoặc tổ chức, từ đó giúp các nhà làm chính sách và quản trị DN có cách thức đối phó và giải quyết hợp lý.

Có thể nói, việc chấp nhận kế toán xanh trong hoạt động DN hiện nay nói riêng và phát triển kinh tế nói chung thể hiện cam kết và trách nhiệm xã hội mà một DN hoặc tổ chức hướng tới môi trường bền vững.

Trong khu vực tư nhân, kế toán xanh có thể tư vấn cho khách hàng về tính bền vững và tác động môi trường của các quyết định của họ. Bởi một khi các nguồn tài nguyên yếu đi, các yếu tố môi trường sẽ đóng một vai trò ngày càng lớn hơn trong kết quả hoạt động kinh doanh của DN.

Những năm trở lại đây, kế toán môi trường – một nội dung cụ thể của kế toán xanh trong hệ thống kế toán nói chung, được nhìn nhận như là một công cụ hữu ích cung cấp các thông tin về môi trường ngoài các thông tin về tình hình sản xuất - kinh doanh của DN, làm cơ sở cho các nghĩa vụ bảo vệ môi trường của DN.

Nhờ đó, sẽ giúp giảm các rủi ro về môi trường cũng như rủi ro về sức khoẻ cộng đồng, đồng thời cải thiện công tác kế toán quản trị và tài chính môi trường ở phạm vi DN.

Kế toán môi trường tìm kiếm và cung cấp các thông tin quan trọng và cần thiết về các chi phí và doanh thu có liên quan đến môi trường, hướng dẫn các DN, các chủ dự án trong các quyết định kinh tế, khuyến khích họ nỗ lực trong việc sử dụng tài nguyên, kể cả tài nguyên thiên nhiên do con người tạo ra một cách có hiệu quả và hạn chế tối đa sự hủy hoại môi trường, hạn chế rác thải và sự ô nhiễm, thay đổi các hành vi đối xử với môi trường sống.

Trên thực tế, nhiều năm qua, Liên Hiệp Quốc đã yêu cầu các quốc gia và tổ chức trên thế giới thực hiện việc hệ thống kế toán môi trường, để phục vụ cho việc ghi chép các dữ liệu có liên quan đến việc hoạt động kinh doanh của DN, mà có tác động đến môi trường. Năm 2014, Liên Hợp Quốc đã triển khai chương trình ứng dụng mang tên “Hệ thống kế toán về kinh tế và môi trường” hay còn gọi là Kế toán xanh (Green Accounting).

Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia đều thừa nhận rằng ghi nhận thu nhập và chi phí từ môi trường không dễ dàng (Sherine & Jacob & Jolly 2012). Lý do là các khoản chi phí đó thường mang tính chất ẩn hoặc khó khăn trong việc ghi nhận. Ngoài ra, nguồn thu và các khoản chi sẽ khó đo lường theo các khía cạnh số liệu của tài chính kế toán, bởi nó liên quan đến tương lai và những nhân tố vô hình khác…

Các nghiên cứu liên quan đến kế toán xanh

Hiện nay, trên thế giới có khá nhiều công trình nghiên cứu về kế toán xanh. Asheim (1997) cho rằng, cần thành lập hệ thống kế toán xanh hoặc môi trường để ngăn chặn ô nhiễm hoặc thiệt hại (đặc biệt trước tình trạng quá trình nhà máy điện có ảnh hưởng đến nguồn lực tự nhiên ngày càng cao).

Nghiên cứu của Lafontaine (2002) lại xem xét các khía cạnh môi trường trong điều kiện của nền kinh tế như chi phí của các dịch vụ và sản phẩm, DN có thể giảm tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên để tiết kiệm trong mức độ lớn hơn và giải quyết các yêu cầu tuân thủ môi trường của người tiêu dùng.

Betianu (2008) cho rằng, trong thế giới kinh doanh hiện đại, thực hiện hạch toán kế toán xanh được coi là một yếu tố quan trọng, góp phần hạn chế ảnh hưởng đến môi trường và phát triển kinh tế tại các nước đang phát triển. Nghiên cứu này cũng dự báo các DN từ tất cả các lĩnh vực kinh doanh thực hiện công cụ kế toán xanh đến một mức độ nhất định trong các năm tới...

Nghiên cứu của Gary Otte (2008) chỉ ra rằng, các tổ chức có thể có những lợi ích nhất định bên trong và bên ngoài bằng thực hiện hệ thống kế toán xanh.

Heba YM & Yousuf (2010) đã kiểm tra các khái niệm kế toán môi trường bằng cách khám phá các kỹ thuật để phát triển các báo cáo môi trường cho phép chính phủ sử dụng và làm cho nhiều DN chịu trách nhiệm về các yếu tố bên ngoài của họ.

Nghiên cứu này cũng khẳng định, trong những năm sắp tới, các DN sẽ phải đối mặt với những thách thức liên quan để thiết lập và thực hiện các chiến lược kinh doanh có liên quan với hạch toán môi trường…

Năm 2001, một báo cáo được Liên Hiệp Quốc công bố về phát triển bền vững mang tên “Nâng cao vai trò của Chính phủ trong việc thúc đẩy kế toán quản lý môi trường” đã được xuất bản, trong đó nêu rõ một số nguyên tắc và thủ tục liên quan đến kế toán quản lý môi trường, đặc biệt tập trung vào các kỹ thuật để định lượng các chi phí môi trường cho sự phát triển của quốc gia.

Bên cạnh đó, Hội đồng tiêu chuẩn kế toán bền vững (một tổ chức phi lợi nhuận của Hoa Kỳ được thành lập vào năm 2011) hiện đang phát triển các tiêu chuẩn kế toán theo ngành cụ thể để tính bền vững có thể được sử dụng trong các báo cáo hàng năm.

Việt Nam cần phát triển kế toán xanh

Vận dụng kế toán xanh nói chung và kế toán môi trường nói riêng là một quá trình lâu dài, đòi hỏi cần phải được nghiệm túc thực hiện, nghiên cứu đầu tư để tạo được sự tăng trưởng bền vững. Có thể khẳng định, kế toán xanh nói chung và kế toán môi trường nói riêng là một bộ phận của tăng trưởng xanh, hướng đến mục tiêu “do con người, vì con người”, góp phần tạo sự ổn định, bền vững cho nguồn lực môi trường, xã hội phát triển.

Thời gian qua, tại Việt Nam, trong quá trình hoạt động kinh doanh, nhiều DN đã tạo ra những chất thải gây hại cho nền kinh tế. Do vậy, các DN thuộc nhóm này cũng cần có một hệ thống kế toán để ghi nhận các yếu tố về môi trường, nhằm đảm bảo khả năng thu hồi chi phí để phục vụ cho việc cải tạo môi trường bền vững, chứ không phải chỉ sử dụng cho mục đích kinh doanh.

Hiện nay, nhìn chung, các quy định về tài chính, các chuẩn mực, các chế độ kế toán của Nhà nước và công cụ kế toán của DN chưa cung cấp và đáp ứng được những thông tin cần thiết về các chi phí liên quan đến môi trường theo các yêu cầu cho việc ra quyết định các hợp đồng và lập báo cáo tài chính tại DN.

Việt Nam hiện cũng đã ban hành một số quy định yêu cầu các DN, các nhà đầu tư phải tiến hành đánh giá tác động đến môi trường, phải đưa ra hoặc triển khai các giải pháp xử lý môi trường trước khi thực hiện các dự án.

Để thực hiện các quy định pháp lý đó, tất yếu phát sinh thêm nhiều loại chi phí với quy mô ngày càng lớn liên quan đến môi trường, đến bảo vệ môi trường, xử lý các tác động đến môi trường và nâng cao chất lượng môi trường trong hợp đồng kinh doanh của các DN và trong triển khai các dự án đầu tư. Do vậy, các nhà quản trị DN cần phải có nhiều thông tin hơn về khía cạnh chi phí liên quan đến môi trường phát sinh trong các hợp đồng của DN để đưa ra được các quyết định đầu tư kinh doanh phù hợp.

Qua đó, vừa có thể tìm kiếm lợi nhuận từ các dự án, vừa tránh được các khoản xử phạt liên quan đến môi trường. Kế toán xanh nói chung và kế toán môi trường nói riêng chính là công cụ quan trọng hỗ trợ các nhà quản trị DN. Trong thời gian tới, nhằm đẩy mạnh việc ứng dụng kế toán xanh, cần chú trọng một số vấn đề sau:

Về phía cơ quan quản lý:

Thứ nhất, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến kế toán xanh. Hiện nay, hệ thống kế toán đang áp dụng chưa đủ điều kiện để các DN thực hiện kế toán môi trường. Hệ thống tài khoản, sổ, chứng từ kế toán không ghi nhận riêng biệt những thông tin môi trường.

Trên các tài khoản kế toán chưa ghi nhận các chi phí đáng kể liên quan đến môi trường như chi phí sửa chữa, đền bù, chi phí khắc phục sự cố và chi phí dọn dẹp, xử lý trong các vụ tai nạn, hủy hoại môi trường sinh thái, môi trường sống. Thực tế cho đến nay, yếu tố chi phí “môi trường” và thu nhập do “môi trường” mang lại không nằm trong một tài khoản, một khoản mục riêng rẽ, cụ thể nào của kế toán.

Rất nhiều chi phí liên quan đến môi trường đang phản ánh chung trong các tài khoản chi phí quản lý và các nhà quản lý kinh tế không thể phát hiện, không thể thấy được quy mô và tính chất của chi phí môi trường nói chung và từng khoản chi phí môi trường nói riêng. Với chủ trương phát triển bền vững, “xanh hóa nền kinh tế” của Đảng và Nhà nước, thì các quy định về kế toán xanh cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện trong thời gian tới.

Thứ hai, tăng cường các chế tài xử phạt, thực hiện tốt các chính sách thuế phí môi trường đối với DN, qua đó giúp các DN nâng cao nhận thức cũng như thực hiện trách nhiệm của mình đối với môi trường và bảo vệ môi trường. Ngược lại, cũng có chế độ đãi ngộ, khuyến khích và biểu dương các DN thực hiện trách nhiệm xã hội tốt của mình, qua đó tuyên truyền sâu rộng về việc áp dụng kế toán xanh trong hoạt động thực tiễn.

Về phía DN:

Thứ nhất, cần thay đổi nhận thức trong việc ứng dụng kế toán xanh trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy, hiện nay, bản thân các DN chưa nhận thức được ý nghĩa và lợi ích của hoạt động bảo vệ môi trường nói chung và việc áp dụng kế toán xanh nói riêng.

Đa số các DN tại Việt Nam vẫn chưa tiến hành tính toán các chi phí môi trường. Ngoài ra, nhiều nhà quản trị DN cũng chưa nhận thức được rằng, chi phí bỏ ra để tính toán các chi phí môi trường nhỏ hơn rất nhiều so với tổng chi phí phải gánh chịu khi họ phải trả thuế, phí hay tiền phạt từ các hành vi gây hại môi trường.

Thứ hai, quan tâm đến công tác xây dựng và phát triển nguồn nhân lực có trình độ. Hiện nay, do kế toán xanh chưa phổ biến trong DN, nên bộ phận kế toán của DN hầu như không có những nhân viên kế toán có kiến thức về kế toán môi trường hoặc nhân viên kế toán môi trường chuyên biệt.

Do vậy, trong thời gian tới, các DN cần quan tâm đến việc tìm kiếm, đào tạo và xây dựng phòng kế toán có năng lực và kinh nghiệm về kế toán xanh…      

Tài liệu tham khảo:

1. ThS. Dương Thị Thanh Hiền, Kế toán xanh và kế toán môi trường - Một số quan điểm hiện đại, Tạp chí kế toán - kiểm toán 4/2016;

2. TS. Phạm Quang Huy (2016), Nghiên cứu khung lý thuyết về kế toán xanh và định hướng áp dụng vào Việt Nam trong tiến trình hội nhập toàn cầu, Tạp chí Kế toán Kiểm toán 4/2016;

3. Ambe, Cosmas, M. (2009), Linkages of Sustainability and Environmental Management Accounting. Innovation for Sustainability in a Changing World, 2, 73-84;

4. Bailey, Paul. (1995), Environmental accounting case Studies: Green accounting At AT&T (3rd ed.), Los Angeles: SAGE Publications, Inc;

5.  Lloyd John Pereira (2017), What is green accounting and its importance?, TechJini;

6. DeVry University (2017), What is green accounting? A brief overview of environmental accounting.