Thực trạng xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại

Theo Ths.Nguyễn Thị Liên, Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệu, Ths. Phạm Hồng Minh Hoàng/lsvn.vn

Nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây đã vượt qua khó khăn của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, đồng thời có những dấu hiệu tích cực để phát triển. Do đó, muốn đạt tốc độ tăng trưởng cao thì nhu cầu vốn cho nền kinh tế là rất lớn.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Thực tế cho thấy hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam năng lực tài chính còn hạn chế và hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa trên nguồn vốn vay ngân hàng. Một số doanh nghiệp có năng lực tài chính ở mức khá vẫn sử dụng nguồn vốn ngân hàng như là đòn bẩy tài chính để phát triển kinh doanh. Từ đó có thể khẳng định, tín dụng ngân hàng trong giai đoạn hiện nay đã và đang là một kênh cung cấp vốn quan trọng cho nền kinh tế và cho doanh nghiệp.

Với vai trò là trung gian tài chính, hoạt động của các ngân hàng luôn đứng trước nguy cơ rủi ro mà chủ yếu là nguy cơ mất vốn; giải pháp cứu cánh hiện nay cho các ngân hàng là bắt buộc người vay phải có tài sản bảo đảm nếu muốn sử dụng vốn vay. Vì vậy, để hạn chế rủi ro, bên cạnh những giải pháp khác thì xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là một biện pháp cần thiết để các ngân hàng thu hồi vốn hiệu quả nhất.

Thực trạng xử lý tài sản bảo đảm tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Trên thực tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) không bao giờ muốn xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) của khách hàng, bởi vì khi xử lý TSBĐ có nghĩa là món vay đó không có hiệu quả. Tuy nhiên, hoạt động cho vay của các ngân hàng không phải lúc nào cũng được tiến hành một cách thuận lợi mà có những trường hợp các NHTM bắt buộc phải xử lý TSĐB của khách hàng, vấn đề này xuất phát từ những nguyên nhân sau đây:

Thứ nhất, trừ một số ít khách hàng có hoạt động kinh doanh không hiệu quả do kinh doanh thua lỗ, các khoản nợ khó đòi, khó khăn do thay đổi cơ chế, thay đổi chính sách của Nhà nước thì hầu hết các khoản nợ xấu bắt nguồn từ khâu thẩm định trước khi cho vay hời hợt, quá trình kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay không chặt chẽ và công tác kiểm tra sau cho vay không được thực hiện đầy đủ của cán bộ tín dụng, dẫn đến không phát hiện kịp thời những khó khăn của khách hàng ngay từ khi vừa xác lập quan hệ.

Không ít khách hàng, khi được kiểm tra về việc sử dụng vốn sau khi vay cho biết chỉ một phần vốn vay thực sự đưa vào kinh doanh, còn lại dùng cho mục đích khác như: sửa nhà, mua sắm vật dụng, thậm chí là tiêu xài cá nhân... Đến khi kinh doanh thua lỗ, không còn nguồn khác để trả nợ ngân hàng, buộc NHTM phải phát mãi tài sản của khách hàng.

Thứ hai, về nguồn cung cấp thông tin. Ngoài những thông tin do khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng cũng gặp nhiều khó khăn với các kênh thông tin về khách hàng. Rất khó kiểm chứng được toàn bộ những thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng là đúng sự thật. Một số NHTM muốn đẩy phần rủi ro cho ngân hàng khác bằng cách chỉ cung cấp thông tin tốt về khách hàng đó khi ngân hàng bạn xác minh thông tin. Ngân hàng vẫn chưa có sự liên kết với các cơ quan khác như thuế, hải quan để kiểm chứng những thông tin tài chính do khách hàng cung cấp.

Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ban hành 22/2/2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 163/2006/NĐ-CP đã quy định tương đối đầy đủ những điều khoản nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và xử lý TSBĐ, đặc biệt là trong các tranh chấp dân sự giữa ngân hàng với người đi vay.

Quyền xử lý TSBĐ được xác lập thông qua hợp đồng bảo đảm khi hợp đồng đó có hiệu lực. Tuy nhiên, bên nhận bảo đảm chỉ có quyền xử lý TSBĐ thực tế khi phát sinh các căn cứ theo pháp luật hoặc theo thỏa thuận. Pháp luật hiện hành quy định các trường hợp xử lý TSBĐ bao gồm:

- Đến hạn thực hiện nghĩa vụ bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Bên nhận bảo đảm chứng minh nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng làm cơ sở cho việc xử lý tài sản của mình.

- Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, Điều 57 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP còn hướng dẫn xử lý TSBĐ trong trường hợp bên bảo đảm bị phá sản và xử lý TSBĐ khi tài sản đó thực hiện nhiều nghĩa vụ.

Thực tế xử lý TSBĐ ở các NHTM hiện nay cho thấy, có hai dạng thường gặp, đó là TSBĐ là động sản và TSBĐ là bất động sản.

Đối với TSBĐ là động sản mà không phải đăng ký quyền sở hữu như máy móc, dây chuyền sản xuất, trang thiết bị… thì theo quy định, chỉ cần căn cứ vào những thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tài sản mà NHTM với người vay đã ký kết, ngân hàng được phép bán đấu giá, thu hồi vốn cho vay; nếu còn thừa tiền thì trả lại phần thừa cho khách hàng.

Đối với TSĐB là bất động sản như nhà, đất, tài sản trên đất..., do các tài sản này đòi hỏi phải đăng ký và liên quan đến nhiều quy phạm pháp luật, nhiều trường hợp khách hàng không chịu ký vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng mua bán nhà cho ngân hàng nên ngân hàng rất khó thực hiện quyền để thu hồi nợ. Các NHTM có thể kiện ra tòa án nhân dân nhưng ở một chừng mực nào đó, các phán quyết của tòa án ở các cấp nhiều lúc rất khác nhau, thậm chí đối lập nhau nên rất khó cho bên nhận bảo đảm thực hiện quyền đòi tài sản.

Trong quá trình xử lý TSBĐ nợ vay, các NHTM gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ các vấn đề sau:

Một là, sự phối hợp của khách hàng khi thực hiện bàn giao tài sản trên thực tế và thực hiện thủ tục pháp lý theo quy định của pháp luật hiện hành để xử lý TSBĐ. Vấn đề này thực sự rắc rối nếu quá trình thẩm định của cán bộ tín dụng không tiến hành một cách kỹ lưỡng dẫn đến các vấn đề phát sinh khi xử lý tài sản, chẳng hạn như khi thẩm định tài sản, cán bộ tín dụng ngân hàng không điều tra xem cá nhân nào đang sinh sống tại nơi có TSBĐ, mối quan hệ với bên vay vốn như thế nào.

Có nhiều trường hợp tài sản được bên vay vốn thế chấp, tuy nhiên bên vay vẫn còn nghĩa vụ nợ đối với cá nhân đang sinh sống tại tài sản thế chấp, đến hạn xử lý tài sản thì mới phát hiện ra…, đây chỉ là một trường hợp điển hình trong rất nhiều trường hợp dẫn đến việc tranh chấp, khiến cho ngân hàng không xử lý được TSBĐ.

Hai là, việc áp dụng quy định pháp luật điều chỉnh và sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan như phòng công chứng, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, ủy ban nhân dân các cấp trong việc giải quyết thiếu đồng bộ, còn “đùn đẩy” trách nhiệm, dẫn tới hệ lụy xấu cho việc xử lý TSBĐ.

Thứ ba, khi xử lý TSBĐ là bất động sản theo phương thức bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản hoặc bên bảo đảm bán tài sản thông qua bán đấu giá hay không thông qua bán đấu giá thì khi thực hiện thủ tục công chứng hợp đồng mua bán hay chuyển nhượng, một số phòng công chứng yêu cầu phải có thông báo giải chấp của bên nhận bảo đảm, một số phòng công chứng lại yêu cầu phải thực hiện thủ tục xóa đăng ký giao dịch bảo đảm tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.

Thứ tư, Nghị định 163/2006/NĐ-CP và Nghị định sửa đổi bổ sung quy định nguyên tắc xử lý TSBĐ thực hiện theo thỏa thuận của các bên, nếu không có thỏa thuận thì tài sản được bán đấu giá. Tuy nhiên trên thực tế, các bên tự xử lý TSBĐ theo thỏa thuận gặp nhiều khó khăn do các trình tự, thủ tục xử lý còn phụ thuộc vào thái độ hợp tác của bên bảo đảm, bên giữ tài sản, NHTM chưa được toàn quyền xử lý TSBĐ trong khuôn khổ pháp luật và việc xử lý tài sản bảo đảm vẫn gặp nhiều khó khăn không chỉ do ý thức chây ỳ của con nợ mà còn ở cả lỗi từ phía ngân hàng.

Điển hình chỉ trong vòng một tháng, Ngân hàng Đông Á đã ký 5 hợp đồng cho vay đối với một khách hàng (chưa từng quan hệ tín dụng với ngân hàng) với tổng giá trị gần 5 tỷ đồng, TSBĐ là các sổ đỏ mang tên khách hàng này. Sau khi người này bỏ trốn, Ngân hàng này mới nhờ cơ quan công an can thiệp. Trong quá trình xác minh, cơ quan công an phát hiện khách hàng trên đã cho các hộ dân vay một số tiền rất nhỏ so với giá trị ngôi nhà, sau đó, lừa các hộ dân làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng  đất cho mình để mang thế chấp vay ngân hàng gần 5 tỷ đồng rồi bỏ trốn.

Giải pháp nhằm hạn chế những tồn tại trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm tại các NHTM

Với bối cảnh kinh tế nước ta hiện nay, môi trường pháp lý về chế độ kế toán, kiểm toán tài chính đang trong quá trình hoàn thiện, vì thế tính minh bạch, trung thực của báo cáo tài chính, các thông tin của khách hàng cung cấp nhiều khi chưa đủ tin cậy và không theo đúng quy định về cho vay. Thực trạng trên rất dễ dẫn đến các NHTM bị  mất vốn. Do đó, cho vay có TSBĐ có thể được xem là công cụ cần thiết để có thể hạn chế được tình trạng rủi ro này.

Thực tế cho thấy, về phía các NHTM, nguy cơ mất vốn hoặc không thu hồi được đầy đủ vốn đầu tư ban đầu là tình trạng thường gặp, về phía khách hàng là tình trạng mất uy tín và phá sản. Mặc dù vấn đề này đã được các quy phạm pháp luật quy định rõ nhưng xem ra lại không được kỳ vọng như các ngân hàng mong muốn. Trước tình hình đó, chúng tôi đề xuất các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, việc đánh giá TSBĐ cho khoản vay như việc thẩm định điều kiện tài sản thế chấp, năng lực pháp lý của người thế chấp tài sản, định giá tài sản, tính thanh khoản của tài sản… là hết sức cần thiết và không thể thiếu được trong tình hình hiện nay. Hơn lúc nào hết cần phải đề cao vai trò của TSBĐ từ việc tuân thủ tỷ lệ xác định cho vay tối đa do hội sở của các NHTM quy định, chẳng hạn như: thẩm định vị trí, tính thanh khoản của nhà ở, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất. Đồng thời phải hạn chế hoặc từ chối các TSBĐ là hàng hóa, máy móc thiết bị khó định giá, khó quản lý và tính thanh khoản thấp.

Thứ hai, trong các quy phạm pháp luật về giao dịch đảm bảo nên hướng dẫn rõ ràng, thống nhất các thủ tục xử lý TSBĐ đối với các bên có liên quan. Làm như vậy sẽ phù hợp hơn với hình thức pháp lý của văn bản cũng như yêu cầu đặt ra. Theo đó, Điều 58 Nghị định 163/2006/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung nên bỏ quy định “việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thỏa thuận của các bên”, bởi quy định này là không cần thiết vì không quy định thì các bên cũng đã tự thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm tài sản.

Thứ ba, cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chung trong phạm vi cả nước về giao dịch bảo đảm giúp các NHTM và các chủ thể liên quan truy cập, đăng ký nhanh và cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời về TSBĐ. Thông tin khi được hệ thống hóa sẽ giúp các NHTM có thêm thông tin trong quá trình thẩm định tài sản, do đó sẽ giảm thiểu đến mức tối đa rủi ro khi cấp tín dụng cho khách hàng.