Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro theo chuẩn mực quốc tế

Xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam phải đáp ứng các yêu cầu quản trị nói chung và quản trị rủi ro (QTRR) nói riêng theo chuẩn mực quốc tế, đồng thời mở ra các cơ hội để ngành Ngân hàng có thể tiếp cận nhanh và gần hơn với các chuẩn mực đó.

Hiện nay, bên cạnh nỗ lực giải quyết các khoản nợ xấu từ hoạt động cho vay trong quá khứ, các NHTM Việt Nam đã bắt đầu chuẩn bị các bước dài hơi hơn bằng cách xây dựng hệ thống quản lý rủi ro (QLRR) tiên tiến, nhằm phòng ngừa rủi ro trong tương lai, thay vì phải giải quyết “sự đã rồi”.

QTRR vẫn là một chức năng khá mới mẻ đối với các NHTM Việt Nam trong bối cảnh các ngân hàng đang chật vật xây dựng “khẩu vị” rủi ro, khả năng chịu đựng và các giới hạn rủi ro, cũng như làm thế nào để nâng cao quy trình, kiểm soát và quản lý các nguồn lực. Giải quyết các vấn đề rủi ro trong ngân hàng không chỉ đơn giản là chi phí thực hiện kinh doanh mà còn là con đường để hiểu rõ hơn hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hơn thế nữa, sự kết hợp giữa giám sát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và sự sẵn sàng chủ động của các ngân hàng sẽ giúp xây dựng hệ thống ngân hàng Việt Nam vững mạnh.

Trước tình hình đó, Hiệp ước Basel là một thước đo chung để QLRR tại các NHTM Việt Nam. Một ngân hàng tuân thủ Hiệp ước Basel II đồng nghĩa với việc có một hệ thống QLRR tiên tiến, hiện đại. Hiệp ước Basel II không chỉ là tuân thủ, tiếp nhận thực hiện Hiệp ước Basel chính là thực hiện chuẩn mực tối thiểu đánh giá rủi ro ngân hàng phải đối mặt và để đảm bảo đủ vốn, tăng hiệu quả hoạt động nói chung.

Hiệp ước Basel II đưa ra các chỉ dẫn, phương pháp tính toán, còn dữ liệu, đặc thù về con người, “khẩu vị” rủi ro của ngân hàng và danh mục tài sản mà các ngân hàng đang nắm giữ lại rất khác nhau. Cơ quan quản lý sẽ đưa ra các quy định, hướng dẫn về triển khai Hiệp ước Basel II cho các ngân hàng, đồng thời, phê chuẩn ngân hàng nào sẽ được coi là tuân thủ Basel II. Các ngân hàng đang dần nhận ra các lợi ích thương mại/kinh doanh khi thực hiện Basel cũng như các cơ hội tiết kiệm vốn tiềm năng.

Trong thời gian qua, các NHTM Việt Nam đã quan tâm quản trị các loại rủi ro như rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt động. Kết quả “Khảo sát về ngành Ngân hàng Việt Nam 2013” của KPMG (Công ty cung cấp các dịch vụ kiểm toán, thuế và tư vấn): 80% ngân hàng đã nắm bắt được việc NHNN lập kế hoạch thực hiện khung giám sát theo Hiệp ước Basel II. NHNN đã tài trợ các khóa đào tạo giới thiệu ý nghĩa của Basel II cho các ngân hàng nhưng chưa đưa ra hướng dẫn về việc khi nào các quy định mới được ban hành; Các ngân hàng cũng chưa sẵn sàng để cam kết thực hiện lộ trình triển khai hay đưa ra một quyết định quan trọng gây tốn kém.

Tuy nhiên, 57% đối tượng tham gia khảo sát cho rằng, vấn đề QTRR hoạt động là đáng quan ngại nhất. Nhiều ngân hàng đang triển khai QLRR hoạt động ở những công việc ban đầu như: nghiên cứu thiết lập quy trình, xây dựng các văn bản về QTRR hoạt động, theo dõi các rủi ro và cảnh báo…Về cơ sở tính toán vốn cho rủi ro hoạt động thì 64% các ngân hàng sẽ sử dụng phương pháp tiêu chuẩn để tính vốn trong khi 14% ngân hàng lại sử dụng phương pháp chỉ số cơ bản và 21% vẫn chưa quyết định. Tất cả các ngân hàng đều chỉ ra rằng còn rất nhiều khó khăn khi triển khai áp dụng Hiệp ước Basel II. Hai khó khăn chung được nhắc đến nhiều nhất chính là chi phí triển khai Hiệp ước Basel II (85%) và thiếu dữ liệu lịch sử (78%).

Nguyên tắc quản trị rủi ro hoạt động

Theo tài liệu Thỏa ước quốc tế về đo lường vốn và chuẩn mực vốn, tháng 11/2005 của Ủy ban Basel: Rủi ro hoạt động là rủi ro tổn thất phát sinh do các quy trình nội bộ không đầy đủ hoặc không hoạt động tốt, do con người và hệ thống hoặc do các sự kiện bên ngoài.

Những nguyên tắc chủ yếu liên quan đến rủi ro hoạt động trong các tài liệu này bao gồm:

Nguyên tắc 1: Do hoạt động QTRR hoạt động vẫn đang phát triển và môi trường kinh doanh thường xuyên biến động nên ban lãnh đạo ngân hàng cần đảm bảo rằng các chính sách, quy trình và hệ thống của khuôn khổ này đều phải đầy đủ và có hiệu lực. Khả năng tăng cường công tác QTRR hoạt động sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc những vấn đề quan ngại do cán bộ QTRR hoạt động đưa ra được cân nhắc đến mức độ nào cũng như việc lãnh đạo cấp cao có sẵn sàng hành động nhanh chóng và thích hợp đối với những dấu hiệu cảnh báo đưa ra hay không.

Nguyên tắc 2: Các ngân hàng cần xây dựng, triển khai và duy trì một khuôn khổ tích hợp toàn diện vào các quy trình QTRR nói chung của toàn ngân hàng

Nguyên tắc 4: Hội đồng quản trị phải phê duyệt và rà soát lại “khẩu vị” cũng như khả năng chịu rủi ro hoạt động gắn với bản chất, loại hình và mức độ rủi ro hoạt động mà ngân hàng sẵn sàng chấp nhận.

Nguyên tắc 10: Các ngân hàng cần có kế hoạch hồi phục và vận hành liên tục để đảm bảo khả năng hoạt động bình thường và giảm thiểu tổn thất trong trường hợp gặp đổ vỡ nghiêm trọng hoạt động kinh doanh.

Mặc dù có nhiều nỗ lực, song cho tới nay Việt Nam vẫn chưa thiết lập được khuôn khổ pháp lý chính thức cho QTRR hoạt động. Hiện NHNN vẫn đang nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống QTRR tại các ngân hàng để phù hợp với lộ trình áp dụng Basel II và lộ trình cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) theo đề án đã được chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 254/QĐ-TTg. Mới đây, tháng 3/2014, NHNN đã ban hành Dự thảo Thông tư Quy định về hệ thống QLRR trong hoạt động ngân hàng để xin ý kiến cá nhân, tổ chức và dự kiến có hiệu lực từ ngày 01/6/2014. Chậm nhất đến ngày 1/6/2016, các tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải hoàn thiện hệ thống QLRR theo quy định tại thông tư này.

Theo Dự thảo thông tư, các TCTD cần báo cáo cho NHNN theo định kỳ hàng quý về tình hình rủi ro, QLRR và đột xuất trong trường hợp các rủi ro này có nguy cơ gây ra tổn thất lớn hơn 5% vốn tự có TCTD, chi nhánh ngân hàng trong nước trong thời gian 5 ngày làm việc kể từ khi tổn thất xảy ra. Dự thảo thông tư quy định TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thiết lập và vận hành hệ thống QLRR theo 4 cấu phần: (i) Sự giám sát của HĐQT, HĐTV, ngân hàng mẹ, Ban điều hành; (ii) Các văn bản về chiến lược, chính sách, quy trình QLRR; (iii) Hệ thống thông tin quản lý (MIS) và (iv) Kiểm toán nội bộ. Hội đồng quản trị, ngân hàng mẹ sẽ chịu trách nhiệm cuối cùng và cao nhất về hệ thống QLRR của TCTD, chi nhánh.

Trong bối cảnh hiện tại, các NHTM hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của NHNN, do vậy cần xem xét kỹ lưỡng để quyết định lựa chọn khung QTRR hoạt động sao cho đáp ứng được những yêu cầu cơ bản theo chuẩn mực quốc tế như: (i) Chiến lược của ngân hàng và phương pháp QTRR hoạt động phải ăn khớp với nhau; (ii) Xác định được các phương pháp quản lý và đo lường rủi ro hoạt động; (iii) Đưa ra các công cụ chuẩn mực về xác định, đo lường, kiểm tra, giám sát, báo cáo rủi ro hoạt động trong toàn hệ thống…

Mục tiêu triển khai mô hình QTRR hoạt động ở mỗi ngân hàng có thể khác nhau, từ việc đảm bảo tuân thủ các yêu cầu của pháp luật, phù hợp với các thông lệ quốc tế đến tạo ra hiệu quả hoạt động và lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, để đảm bảo hoạt động QTRR hoạt động thành công là cam kết của ban lãnh đạo và sự thống nhất về mô hình QTRR hoạt động. Ngân hàng nên thực hiện việc minh bạch khung QTRR hoạt động để các bên liên quan có thể hiểu được các phương pháp QTRR hoạt động của ngân hàng.

Mặt khác, công việc có vai trò quan trọng trong quy trình QTRR hoạt động là giai đoạn thu thập các dữ liệu rủi ro trong quá khứ và hiện tại của NHTM từ nhiều nguồn khác nhau. Xây dựng cơ sở dữ liệu tổn thất là yếu tố hàng đầu để thiết lập và triển khai hệ thống QTRR hoạt động hiệu quả và tin cậy. Để làm được điều này, các NHTM Việt Nam cần sớm triển khai xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ QLRR, thậm chí là phục dựng lại dữ liệu quá khứ để đẩy nhanh tiến trình QTRR hoạt động theo chuẩn quốc tế. Các dữ liệu tổn thất các NHTM có thể khai thác được từ các nguồn sau:

Một là, từ các hoạt động nghiệp vụ, các phòng/ban/đơn vị trong hệ thống (ở đây các trưởng phòng/ ban/đơn vị có trách nhiệm khai báo và lưu trữ các rủi ro phát sinh trong quá trình tác nghiệp);

Hai là, các bộ phận giám sát, kiểm soát có trách nhiệm khai báo và lưu trữ các rủi ro phát sinh trong quá trình kiểm tra, kiểm soát;

Ba là, chiết xuất lỗi, sự cố và tổn thất từ các hệ thống khác trong ngân hàng như: core banking, các bộ phận như internet banking, thẻ, treasury...

Giải pháp nâng cao quản trị rủi ro hoạt động

Để xây dựng được cơ sở dữ liệu tổn thất đầy đủ và tin cậy, thời gian tới các NHTM cần tập trung vào những giải pháp sau:

Thứ nhất, cần phải có sự tham gia của tất cả các phòng ban trong các hoạt động thu thập dữ liệu tổn thất. Thêm vào đó, cần xây dựng và chính thức hóa quy trình thu thập dữ liệu tổn thất. Quy trình này phải linh hoạt để có thể cập nhật các nguồn thông tin cũng như phản ánh đúng các khả năng rủi ro hoạt động khi môi trường kinh doanh thay đổi. Quy trình này cần được thông báo rộng rãi và thống nhất trong toàn ngân hàng.

Thứ hai, trên cơ sở thu thập các dữ liệu rủi ro, tổn thất nội bộ và bên ngoài, NHTM đo lường rủi ro hoạt động theo 2 phương pháp: Đo lường định tính và định lượng. Đối với đo lường định lượng thì việc lưu trữ dữ liệu là quan trọng nhất. NHTM phải lưu trữ ít nhất là 3 năm dữ liệu rủi ro hoạt động và chất lượng dữ liệu phải có kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo tính đúng đắn trong việc tính toán.

Thứ ba, ngân hàng cần xác định các rủi ro chính trong các hoạt động theo từng phòng/ban nghiệp vụ, nhằm mục đích giám sát hàng ngày các chuẩn mực và điều kiện về tổ chức ở cấp độ từ dưới lên dựa trên hoạt động kinh doanh, thường xuyên rà soát lại các quy trình và rủi ro đã được xác định. Từ đó, phân tích sát hơn những loại rủi ro hoạt động liên quan đến mảng kinh doanh. Thiết lập một hệ thống cảnh báo sớm có hiệu lực, coi đó như một biện pháp phòng ngừa để giảm thiểu rủi ro hoạt động. Để xác định các rủi ro chính, ngân hàng dựa trên những chỉ số rủi ro chính (KRI) được xây dựng cho từng lĩnh vực kinh doanh.

Thứ tư, ngân hàng còn phải phân loại mức độ rủi ro hoạt động theo cấp độ quan trọng từ thấp đến cao trong hoạt động của mình và xác định các cấp độ báo cáo cho phù hợp. Đồng thời, đưa ra những phương pháp hoặc cách thức để đánh giá và kiểm soát rủi ro ở nhiều mức độ khác nhau (cấp lãnh đạo, quản lý hay cán bộ…). Việc đánh giá và kiểm soát rủi ro phải được diễn ra thường xuyên và áp dụng cho toàn bộ các phòng/ban, nghiệp vụ kinh doanh trong hệ thống.

Thứ năm, một công cụ thường được sử dụng trong QTRR hoạt động là phân tích kịch bản. Lợi ích của phân tích kịch bản là hỗ trợ ban lãnh đạo rút ra những thông tin cần thiết cho hoạt động điều hành, không ngừng cải thiện quy trình QLRR hoạt động, thực hiện giám sát rủi ro chủ động để bổ sung cho việc phân tích dữ liệu tổn thất sau này.

Để xác định kịch bản, ngân hàng cần lưu ý các điều kiện tiên quyết: Những gì xảy ra gần đây? Những gì có thể xảy ra trong điều kiện hiện tại, những gì có thể xảy ra sắp tới? Xác suất ước tính là bao nhiêu? Tổn thất dễ xảy ra nhất là gì? Những rủi ro nào cần tính đến trong trường hợp xấu nhất? Các biện pháp để giảm các rủi ro này?... Với các kịch bản lựa chọn, ngân hàng ước tính rủi ro hoạt động trên cơ sở toàn bộ hoạt động kinh doanh của toàn bộ phận, đồng thời rà soát mức độ mà các tổn thất lớn có thể xảy ra. Dựa vào đó, các NHTM sẽ tính toán hay điều chỉnh giá trị rủi ro và phân bổ vốn dự phòng rủi ro hoạt động theo phương pháp thích hợp được hướng dẫn trong Basel II.

Thứ sáu, ngân hàng cần sớm xây dựng hệ thống báo cáo nhằm đáp ứng các yêu cầu của NHNN cũng như đáp ứng nhu cầu quản trị nội bộ. Theo Basel, ban lãnh đạo ngân hàng nên triển khai một quy trình để thường xuyên giám sát hồ sơ rủi ro hoạt động và các nguy cơ trọng yếu có thể gây ra tổn thất. Cơ chế báo cáo phù hợp cần phải có ở cấp độ Hội đồng quản trị, ban điều hành, đơn vị kinh doanh nhằm tạo điều kiện chủ động QTRR hoạt động.

Thứ bảy, cần chú trọng công tác quản trị nội bộ, giúp ngân hàng chủ động nắm bắt những biến động trên thị trường, nhìn nhận được dấu hiệu rủi ro và cảnh báo sớm rủi ro. Để quản trị nội bộ tốt, ban lãnh đạo cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng trong QTRR hoạt động của ngân hàng, thường xuyên cập nhật quá trình đánh giá rủi ro hoạt động, đặc biệt những rủi ro trong phát triển sản phẩm mới hoặc triển khai một hoạt động kinh doanh mới.

Thứ tám, các NHTM cần nâng cao hiệu quả hệ thống kiểm toán nội bộ. Định kỳ, kiểm toán nội bộ đánh giá hoạt động kinh doanh, tập trung vào các rủi ro chiến lược và rủi ro hoạt động, từ đó đưa ra các khuyến nghị để cấp quản lý rà soát, xác định và giải quyết. Yêu cầu bộ phận kiểm toán nội bộ phải có hiểu biết toàn diện về toàn bộ hoạt động ngân hàng, các vấn đề pháp lý và quy định.

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro hoạt động tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

ThS. ĐÀO THỊ THANH TÚ - Học viện Ngân hàng

(Tài chính) Thời gian gần đây, các ngân hàng đã nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống quản trị rủi ro cũng như mối liên hệ giữa quản trị rủi ro và lợi nhuận. Một ngân hàng quản lý rủi ro tốt, nghĩa là ngân hàng đó có sức đề kháng tốt, ít bị ảnh hưởng bởi những tác động không lường trước và có khả năng đưa ra những hành động kịp thời, hạn chế thấp nhất những tổn thất cho ngân hàng.

Xem thêm

Video nổi bật