Chính sách thuế thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam phát triển

TS. Phạm Thái Hà

Trong thời gian qua, các chính sách ưu đãi thuế như chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng… đã tạo hiệu ứng tích cực đến phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam. Đặc biệt, công nghiệp hỗ trợ phát triển không chỉ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ta nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Tác động của chính sách thuế đến phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ

Xác định công nghiệp hỗ trợ (CNHT) có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế đất nước, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ ngành CNHT phát triển. Cụ thể, năm 2007, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) đã ban hành Quyết định số 34/2007/QĐ-BCN phê duyệt Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020; Năm 2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg về phát triển một số ngành CNHT.

Quyết định này nêu rõ, Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư phát triển CNHT. Cùng với đó, năm 2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1483/QĐ-TTg ngày 26/8/2011 ban hành Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển và Quyết định số 1556/QĐ-TTg ngày 17/10/2012 về phê duyệt Đề án “Trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong lĩnh vực CNHT”…

Hướng dẫn Quyết định số 12/2011/ QĐ-TTg, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 96/2011/TT-BTC quy định chi tiết về các chính sách ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; về vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; về các chính sách trợ giúp tài chính theo quy định về trợ giúp phát triển DNNVV; chính sách đối với dự án sản xuất sản phẩm CNHT cho phát triển công nghiệp công nghệ cao. Theo đó, hàng loạt ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được áp dụng đối với các DN, chủ đầu tư hoạt động trong lĩnh vực CNHT.

Bên cạnh đó, để tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo thuận lợi hơn cho ngành CNHT phát triển, năm 2014, Quốc hội đã thông qua Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi bổ sung một số điều của các Luật về thuế.

Theo đó, Luật đã đưa ra các quy định về ưu đãi cao nhất về thuế TNDN (thuế suất 10% trong vòng 15 năm, miễn 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế) cho Dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT.

Trên cơ sở các chính sách thuế trên, Chính phủ tiếp tục ban hành các nghị định: Nghị định 12/2015/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn Luật số 71; Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển CNHT. Cùng với đó, các bộ, ngành liên quan cũng đã ban hành một số văn bản hướng dẫn, triển khai các chính sách ưu đãi về thuế vào thực tiễn.

Cụ thể như: Thông tư 55/2015/TT-BCT của Bộ Công Thương hướng dẫn thủ tục xác nhận ưu đãi đối với Dự án sản xuất sản phẩm CNHT; Thông tư 21/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn về ưu đãi thuế TNDN đối với Dự án sản xuất sản phẩm CNHT đã được ban hành để hướng dẫn về ưu đãi thuế TNDN đối với CNHT.

Tiếp đó, ngày 18/1/2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 68/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình phát triển CNHT từ năm 2016 đến năm 2025 và Quyết định số 10/2017/QĐ-TTg ngày 3/4/2017 về Quy chế quản lý và thực hiện Chương trình phát triển CNHT. Đây là những chính sách góp phần tạo động lực thúc đẩy ngành CNHT ở Việt Nam phát triển cũng như khuyến khích cho các nhà đầu tư, DN trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực này.

Điều đáng chú ý là các chính sách thuế này đã nêu rất cụ thể các mục tiêu ở các nhóm trong ngành CNHT ở Việt Nam. Ví dụ: Ở lĩnh vực linh kiện phụ tùng, nêu rõ: Phát triển linh kiện phụ tùng kim loại, linh kiện phụ tùng nhựa - cao su và linh kiện phụ tùng điện - điện tử, đáp ứng mục tiêu đến năm 2020 cung ứng được 35% nhu cầu sản phẩm linh kiện phụ tùng cho các ngành công nghiệp ưu tiên phát triển; Đến năm 2025, cung ứng được 55% nhu cầu trong nước, đẩy mạnh sản xuất các lĩnh vực sản phẩm phục vụ các ngành công nghiệp công nghệ cao.

Đối với lĩnh vực CNHT ngành Dệt may - Da giày, mục tiêu đặt ra đến năm 2020 là tỷ lệ cung cấp trong nước của ngành Công nghiệp dệt may đạt 65%, ngành Da giày đạt 75-80%. Hay ở lĩnh vực CNHT cho công nghiệp công nghệ cao, Chính phủ cũng đặt mục tiêu phát triển sản xuất vật liệu, thiết bị hỗ trợ chuyên dụng, phần mềm và dịch vụ phục vụ các ngành công nghiệp công nghệ cao; phát triển hệ thống DN cung cấp thiết bị hỗ trợ chuyên dụng, hỗ trợ chuyển giao công nghệ trong công nghiệp công nghệ cao; Hình thành các DN bảo trì, sửa chữa máy móc đạt tiêu chuẩn quốc tế, làm tiền đề phát triển DN sản xuất thiết bị, phần mềm phục vụ các ngành này; Hình thành hệ thống nghiên cứu phát triển và sản xuất vật liệu mới, đặc biệt là vật liệu điện tử.

Một số khó khăn, hạn chế

Bên cạnh những đổi mới mạnh mẽ về chính sách nêu trên, các chính sách thuế này cũng bộc lộ không ít khó khăn, hạn chế như: Việt Nam đã ban hành quy hoạch công nghiệp và quy hoạch ngành một số lĩnh vực hạ nguồn quan trọng cho CNHT như ô tô, điện tử, công nghiệp công nghệ cao nhằm định hướng phát triển các lĩnh vực này. Tuy nhiên, các định hướng cụ thể và các hỗ trợ phát triển đã đề cập đến trong các quy hoạch này ít được triển khai trên thực tế nên đã hạn việc đầu tư của các DN vào sản xuất sản phẩm CNHT cho các lĩnh vực này.

Chính sách thuế thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam phát triển - Ảnh 1
 

Cơ chế hỗ trợ về thuế theo Quyết định 12/2011/QĐ-TTg là cơ chế xin ưu đãi theo đề xuất của DN khiến các DN CNHT gặp không ít khó khăn trong xin ưu đãi. Ngay cả khi Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 3/11/2015 về phát triển CNHT được ban hành cùng với Thông tư số 21/2016/TT- BTC hướng dẫn về khai thuế giá trị gia tăng và ưu đãi thuế thu nhập DN theo quy định tại Nghị định 111/2015/NĐ-CP ngày 3/11/2015 của Chính phủ về phát triển CNHT nhưng vẫn “vướng”cơ chế xác nhận ưu đãi được quy định tại Thông tư 55/TT-BCT của Bộ Công thương quy định trình tự, thủ tục xác nhận ưu đãi và hậu kiểm ưu đãi đối với dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển.

Hiện nay, một số chương trình, hoạt động hỗ trợ DN đã được triển khai theo các chương trình riêng lẻ, thiếu sự liên kết và hỗ trợ lẫn nhau. Chương trình hành động phát triển CNHT cấp quốc gia chưa được xây dựng và cũng không có nguồn kinh phí thường xuyên để hỗ trợ các chương trình liên quan.

Bên cạnh đó, cũng chưa có cơ quan đầu mối thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển CNHT theo các cấp từ Trung ương tới địa phương. Do đó, các chương trình phát triển CNHT được các cơ quan chức năng triển khai riêng lẻ tùy thuộc chức năng, nhiệm vụ hoặc không được triển khai do thiếu đề xuất phù hợp.

Giải pháp thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển

Để khắc phục những hạn chế trên, trong thời gian tới cần tập trung triển khai thực hiện một số giải pháp để thúc đẩy ngành CNHT Việt Nam phát triển như:

Thứ nhất, hoàn thiện các chính sách ưu đãi về thuế nói chung.

- Đối với  thuế nhập khẩu: Bước đầu, giảm thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng trong nước chưa sản xuất được như: Vật liệu phục vụ sản xuất chế tạo, máy móc thiết bị ngành cơ khí chế tạo và công nghiệp công nghệ cao… nhằm khuyến khích đầu tư sản xuất trong nước.

- Đối với thuế TNDN: Việt Nam có thể Ban hành chính sách thuế TNDN ưu đãi vượt khung (thuế suất thấp nhất hoặc thấp hơn mức thấp nhất của luật thuế) đối với dự án CNHT trọng điểm từng giai đoạn; Chính sách thuế thu nhập cá nhân ưu đãi vượt khung (thuế suất thấp nhất hoặc thấp hơn mức thấp nhất của luật thuế) đối với chủ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trọng điểm từng giai đoạn;

- Đối với thuế giá trị gia tăng: Giảm thuế giá trị gia tăng đối với một số sản phẩm quan trọng trong ngành CNHT nhằm kích cầu thị trường trong nước. Các sản phẩm này sẽ được áp dụng mức thuế suất thấp hơn so với thông thường.

Thứ hai, có các chính sách ưu đãi thuế nhằm phát triển hạ tầng CNHT chuyên dụng.

Cần xây dựng các chính sách ưu đãi thuế phù hợp nhằm hỗ trợ các DN trong các khu/cụm công nghiệp đẩy mạnh chiến lược tăng trưởng dựa vào việc cung ứng cho các khách hàng trong nước và hướng tới xuất khẩu. Hướng phát triển các khu/cụm CNHT trở thành hạt nhân thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo - ngành sản xuất đòi hỏi vốn lớn, nguồn nhân lực có kỹ năng cao để mở rộng và phát triển năng lực sản xuất, tăng cường khả năng hợp tác, liên kết với các tập đoàn đa quốc gia…

Chính sách phát triển khu/cụm công nghiệp cần sớm chuyển từ đầu tư thí điểm sang nâng cao chất lượng các khu/cụm công nghiệp bằng việc tập trung xây dựng các khu công nghệ cao, kết hợp chặt chẽ giữa khoa học - công nghệ với công nghiệp, khuyến khích hoạt động nghiên cứu và phát triển trong các ngành công nghiệp…

Cùng với các chính sách ưu đã thuế ở trên, thời gian tới, các cơ quan hữu quan cần rà soát sửa đổi, bổ sung các chính sách ưu đãi thuế đối với ngành CNHT theo hướng:

- Đối với thuế TNDN: Có thể áp dụng mức thuế suất ưu đãi 10% trong 15 năm, kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh; Được miễn thuế TNDN trong 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp cho 9 năm tiếp theo.

- Một số ưu đãi thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng như miễn giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước đối với các DN đầu tư vào ngành CNHT cần sớm được ban hành để khuyến khích DN nước ngoài vào Việt Nam đầu tư làm ăn.

Thứ ba, phát triển dịch vụ đại lý thuế.

Để nâng cao hiệu quả quản lý thuế nên tiến hành xã hội hóa các dịch vụ hỗ trợ về thuế nói chung đặc biệt đối với ngành CNHT;  Phát triển hệ thống đại lý hỗ trợ việc đăng ký, kê khai, nộp thuế.

Thứ tư, về công tác quản lý thuế.

Cần tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính thuế theo hướng nhanh chóng, tạo thuận lợi cho người nộp thuế tự nguyện tuân thủ pháp luật thuế, giảm chi phí tuân thủ cho người nộp thuế; Chuẩn hóa quy trình quản lý thuế dựa trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin đảm bảo thống nhất, có tính liên kết cao; ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý không chỉ giúp giảm thiểu chi phí quản lý hành chính đối với hoạt động quản lý thuế mà còn giảm thiểu các hoạt động hành chính khác, rút gọn quy trình quản lý.

Bên cạnh đó, cần xây dựng và áp dụng chế độ kế toán thuế giản đơn đảm bảo ghi chép đầy đủ, kịp thời nghĩa vụ thuế của người nộp thuế; nâng cao ý thức của đội ngũ cán bộ quản lý thuế trong công việc, đặc biệt là cán bộ quản lý thuế trực tiếp tiếp xúc với người nộp thuế; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng đơn giản, tạo thuận lợi cho người nộp thuế kinh doanh dưới “ngưỡng tính thuế giá trị gia tăng”.     

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Công Thương (2007),Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020;

2. Bộ Công Thương (2007), Công nghiệp hỗ trợ ngành công nghiệp điện tử Việt Nam;

3. Bộ Công Thương (2009), Dự thảo Nghị định về phát triển ngành CNHT;

4. TS. Nguyễn Viết Lợi (2017), “Cải cách chính sách tài chính – đòn bẩy cho phát triển CNHT”, Thời báo Tài chính online.