Kiểm soát tốt chi phí thuốc bảo hiểm y tế

Theo Lan Chi/daibieunhandan.vn

Tại Việt Nam, chi tiêu về thuốc chiếm tỷ lệ lớn trong tổng chi của Quỹ Bảo hiểm y tế (BHYT). Điều này không chỉ ảnh hưởng tới cân đối chi của Quỹ mà còn ảnh hưởng tới cả phần tự chi trả của người bệnh. Vì vậy, việc rà soát và hoàn thiện danh mục thuốc BHYT cho phù hợp với khả năng chi trả của Quỹ BHYT là việc hết sức quan trọng, cần phải tập trung triển khai và đưa vào thực hiện ngay trong thời gian tới.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Danh mục thuốc chi trả từ Quỹ BHYT khá rộng

Theo kết quả nghiên cứu vừa được bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam thực hiện, ở nước ta, chi tiêu về thuốc chiếm tỷ lệ lớn trong tổng chi cho y tế; và tỷ lệ chi thuốc trên tổng chi khám chữa bệnh (KCB) nói chung và KCB BHYT nói riêng đều cao hơn so với các quốc gia có điều kiện tương đồng về kinh tế - xã hội.

Cụ thể, tổng chi cho thuốc từ Quỹ BHYT: Năm 2015 là 26.132 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 48,3%; năm 2016 là 31.5419 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 41%. Về mặt tỷ trọng chi phí thuốc năm 2016 có giảm so với năm 2015, tuy nhiên về giá trị chi phí thuốc năm 2016 lại tăng 20% so với năm 2015.

So sánh danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT tại Việt Nam với danh mục thuốc chi trả BHYT tại một số nước như Philippines, Thái Lan và danh mục thuốc thiết yếu của WHO cho thấy, danh mục thuốc chi trả từ Quỹ BHYT tại Việt Nam khá rộng.

Tổng số thuốc theo danh mục quy định tại Thông tư số 40/2014/TT-BYT ngày 17/11/2014 của Bộ Y tế là 1.064 thuốc, trong khi tại Thái Lan là 765 thuốc, tại Philippines là 186 thuốc, theo danh mục thuốc thiết yếu của WHO là 454 thuốc.

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, về cơ bản, chi phí thuốc BHYT được chi trả đầy đủ theo các nhóm dược lý quy định tại Thông tư số 40 của Bộ Y tế, bảo đảm yêu cầu điều trị.

Chi phí thuốc BHYT phần lớn tập trung vào 20 nhóm thuốc chính, chiếm 86% tổng chi phí thuốc BHYT chi trả năm 2016. Trong đó, chiếm chi phí cao nhất lần lượt là các nhóm thuốc: Kháng sinh; ung thư; điều trị tăng huyết áp; vitamin và khoáng chất.

Khi so sánh chi phí sử dụng trong hai năm 2015 và 2016, một số nhóm thuốc có chi phí sử dụng năm 2016 gia tăng hơn 30% so với năm 2015: Chi phí nhóm thuốc điều trị ung thư tăng 62% so với năm 2015, nhóm thuốc insulin và thuốc hạ đường huyết tăng 38%, nhóm thuốc kháng acid và thuốc chống loét tăng nhiều nhất là 183% so với năm 2015.

Bên cạnh đó, danh mục thuốc BHYT hiện nay của Việt Nam là danh mục theo tên hoạt chất, không quy định theo tên biệt dược, không quy định nồng độ, hàm lượng, dạng bào chế cụ thể như danh mục của nhiều nước.

Do đó, khó có thể kiểm soát chặt chẽ về chất lượng, giá cả các thuốc thực tế sử dụng tại cơ sở KCB. Mặt khác, hiện còn có tình trạng một số công ty, nhà sản xuất sản xuất nhiều loại thuốc ít có tính cạnh tranh, đặc biệt là hàm lượng và dạng bào chế, dễ dẫn đến việc đấu thầu, mua sắm thiếu công bằng.

Hoàn thiện danh mục thuốc BHYT

Từ những kết quả thống kê, phân tích như vừa nêu, nhóm nghiên cứu của BHXH Việt Nam kiến nghị Bộ Y tế sửa đổi, bổ sung danh mục thuốc BHYT phù hợp với khả năng chi trả của Quỹ BHYT; loại khỏi danh mục các thuốc có tác dụng hỗ trợ điều trị; bổ sung giới hạn chỉ định và tỷ lệ thanh toàn đối với các thuốc có chỉ định rộng rãi (như albumin, cerebrolysin...).

Đối với các thuốc đã có khuyến cáo về hiệu quả điều trị chưa rõ ràng, đề nghị xem xét loại khỏi danh mục thanh toán BHYT. Đối với nhóm thuốc có chi phí lớn như thuốc ưng thư, cần xem xét lại tỷ lệ chỉ trả hợp lý.

Ban hành mã thuốc thống nhất dùng chung trên phạm vi toàn quốc, giúp thuận tiện trong công tác thống kê tổng hợp giữa cơ sở KCB và cơ quan BHXH. Thực hiện đấu thầu tập trung đối với các thuốc sử dụng nhiều, chi phí lớn (hiện nay danh mục đấu thầu tập trung của Bộ Y tế mới chỉ có 5 loại thuốc).

Khẳng định chi phí thuốc chiếm tỷ trọng tương đối trong tổng chi phí thanh toán KCB BHYT, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Nguyễn Minh Thảo cho rằng, yêu cầu kiểm soát chi phí thuốc BHYT là rất lớn.

Bà Thảo cũng hy vọng, những số liệu mà nhóm nghiên cứu của BHXH Việt Nam đưa ra sẽ là cơ sở quan trọng có tính khái quát, giá trị khoa học cao, để các cơ quan quản lý xem xét điều chỉnh các quy định pháp lý, tăng cường chỉ đạo điều hành, qua đó khắc phục những hạn chế đang tồn tại về sử dụng thuốc và chi phí thanh toán thuốc BHYT, bảo đảm phát triển BHYT, cân bằng Quỹ BHYT bền vững hơn.