Kinh tế Việt Nam năm 2013 có thể “ngọt ngào” hơn
Trong báo cáo triển vọng kinh tế vĩ mô tháng 1/2013 vừa đưa ra, Ngân hàng HSBC đánh giá, kinh tế Việt Nam trong năm 2013 có thể “ngọt ngào” hơn, nhưng vẫn cần thận trọng.
Chờ đợi nhiều động thái cụ thể
Thế giới dường như lạc quan hơn về tăng trưởng trong năm nay – với việc giá dầu thô Brent đã tăng 5,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Có lẽ niềm lạc quan được củng cố khi gần đây Trung Quốc đã có các chỉ số tăng trưởng mạnh mẽ, Nhật Bản đang xúc tiến cho việc phục hồi các hoạt động kinh tế trong nửa sau năm 2013 và Mỹ đang lấy đà tăng tiêu dùng. Việt Nam cũng vừa bước vào năm 2013 với một nền tảng mạnh mẽ hơn và các số liệu kinh tế tích cực hơn trong tháng 1.
Chỉ số PMI ngành sản xuất Việt Nam của HSBC cho thấy, chỉ số phụ về sản lượng đã tăng ba tháng liên tiếp. Cả nhập khẩu và xuất khẩu đều tăng hơn 40% so với cùng kỳ năm trước, với thặng dư thương mại của tháng 1 dự kiến là 200 triệu USD. Lạm phát vẫn giữ ở mức một con số kể từ tháng 5/2012 và dòng vốn FDI tăng tốc đáng kể.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã lên tiếng về việc hạ lãi suất nhưng bất kỳ động thái nào để thực hiện điều này đều có khả năng ảnh hưởng nhẹ đến tăng trưởng tín dụng. NHNN đã giảm lãi suất trên thị trường mở OMO tổng cộng bảy điểm trong năm 2012. Tuy nhiên, hành động này ít ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng do tính thanh khoản dồi dào trong hệ thống tài chính được phản ánh thông qua các mức lãi suất qua đêm thấp. Tín dụng cả năm 2012 tăng 8,9%, giảm so với mức 14,4% trong năm 2011. Nợ xấu vẫn còn lơ lửng trong hệ thống tài chính sẽ tiếp tục làm giảm nhu cầu tín dụng. Chính vì vậy, chúng tôi lo ngại nhiều hơn về các động thái bơm tín dụng của Chính phủ vào các lĩnh vực đang gặp khó khăn mà không có những cải cách cụ thể để tăng tính minh bạch của khu vực tài chính và khối doanh nghiệp Nhà nước. Những biện pháp như vậy sẽ làm tăng rủi ro mang tính hệ thống mà không giải quyết những thách thức cơ bản của nền kinh tế.
Chỉ số phụ PMI đáng lo ngại nhất không phải là nhu cầu xuất khẩu tiếp tục giảm mà là sự tăng tốc đáng kể của giá cả đầu vào. Khoảng cách giữa giá đầu vào và giá xuất xưởng ngày càng mở rộng, có nghĩa là cơ hội để các nhà sản xuất tăng giá còn rất ít do họ đang chịu sức ép nhu cầu giảm và cạnh tranh khốc liệt. Mặt khác, giá cả đầu vào tiếp tục tăng. Chỉ số lạm phát chính thức mới nhất của tháng 1 đã phản ánh xu hướng này.
Lạm phát toàn phần tháng 1 tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước trong khi tháng 12/2012 chỉ là 6,9%. Về mặt liên tục, lạm phát tăng 1,3% so với tháng trước (không tính yếu tố điều chỉnh theo mùa) từ mức 0,3% của tháng 12/2012. Lưu ý rằng yếu tố mùa vụ cũng đóng vai trò trong việc tăng lạm phát ví dụ như nhu cầu tăng trong dịp gần Tết cổ truyền đặc biệt là những sản phẩm liên quan đến thực phẩm. Tính cả yếu tố mùa vụ và theo tháng (lưu ý Rx12 theo phương pháp mùa vụ có thể không ảnh hưởng khi loại bỏ sự thay đổi thời gian diễn ra Tết Nguyên Đán), lạm phát toàn phần tháng 1 tăng lên tới 0,6% từ mức 0,4% của tháng 12. Lạm phát thực phẩm tăng từ 1% trong tháng 12 so với cùng kỳ năm trước đến 1,3% trong tháng 1.
Trên cơ sở không điều chỉnh theo mùa và tính theo tháng, chỉ số lạm phát thực phẩm tháng 1 tăng 1,3% trong khi chỉ số của tháng 12 là 0,3%. Lạm phát cơ bản vẫn còn cao ở 12,6% so với cùng kỳ năm trước trong tháng 1, tăng từ mức 12,2% trong tháng 12. Lạm phát cơ bản cao hơn đáng kể, cùng với giá dầu tăng cao, có nghĩa là lạm phát toàn phần có thể tăng nhanh nếu lạm phát thực phẩm cũng tăng. Khi Trung Quốc trên đà phục hồi, giá cả hàng hóa toàn cầu có thể tăng, có nghĩa là Việt Nam sẽ phải thận trọng nếu muốn duy trì lạm phát một con số.
Đối với các vấn đề cần được giải quyết cho nhu cầu nội địa yếu, Chính phủ cần phải thực thi một số biện pháp để xóa bỏ nợ xấu trong hệ thống và nâng cao tính hiệu quả của các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước với các chính sách có thể thuyết phục dân chúng rằng họ đang nghiêm túc làm sạch bộ máy. Nếu Chính phủ thiếu kiên nhẫn và thực hiện các biện pháp thúc đẩy các lĩnh vực hoạt động èo uột như bất động sản vốn có liên quan đến vấn đề nợ tài chính hiện nay, thì nhu cầu sẽ được kích thích. Tuy nhiên, điều này sẽ không giải quyết những thách thức cơ bản của nền kinh tế, trong đó sự phân bố sai các nguồn lực là một trong những yếu tố trì kéo đã gây hậu quả năng lực sản xuất tổng thể xuống thấp.