Quản lý giá theo thị trường: Cần tránh ngộ nhận

TS. Nguyễn Thị Kim Nhã -TS. Nguyễn Minh Phong

(Tài chính) Việc quản lý và bình ổn giá nói chung, giá độc quyền nói riêng trong nền kinh tế nước ta hiện cũng có nhiều hạn chế và ngộ nhận cần tránh.

Cần gắn việc điều chỉnh tăng giá với các biện pháp cần thiết nhằm kiểm soát các chi phí hợp lý. Nguồn: internet
Cần gắn việc điều chỉnh tăng giá với các biện pháp cần thiết nhằm kiểm soát các chi phí hợp lý. Nguồn: internet
Yêu cầu hoàn thiện thể chế quản lý thị trường đòi hỏi bảo đảm tính minh bạch và có thể dự báo được của giá cả tuân thủ các quy luật, nguyên tắc, quy trình, tín hiệu thị trường, các cam kết hội nhập quốc tế và thông lệ thế giới, hài hoà lợi ích, góp phần tích cực kiềm chế vững chắc lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt cần chú ý tránh một số ngộ nhận sau:

Thứ nhất, hiểu sai về giá thị trường, coi giá thị trường là ngang bằng giá bán lẻ thế giới hoặc phải tính đủ các chi phí thiếu kiểm soát của doanh nghiệp.

Trên thực tế không có giá bán lẻ chung của thế giới. Việc cổ súy cho tiêu chuẩn giá thị trường là giá bán lẻ trong nước phải bằng giá thế giới được chọn thường là cao nhất, mà “quên” so sánh các điều kiện tự nhiên-kinh tế-xã hội, nguồn cung cũng như các chi phí, năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động cụ thể khác giữa trong và ngoài nước là một ngộ nhận “chết người”, hoặc lỗ hổng nhận thức có chủ ý, tạo ảo tưởng về “trách nhiệm xã hội và nhiệm vụ chính trị” cao vì cộng đồng, tạo tâm lý “ban ơn” cho người tiêu dùng, cũng như dễ ru ngủ và khỏa lấp những đòi hỏi nâng cấp chất lượng hoạt động của doanh nghiệp cung ứng hàng hoá độc quyền.

Ngoài ra, sự ngộ nhận giá thị trường phải tính đủ các chi phí độc quyền, thiếu sự kiểm soát, kiểm toán độc lập khách quan, kể cả những đầu tư đa ngành bất chấp hiệu quả, sẽ khiến các doanh nghiệp độc quyền mất động lực tiết giảm chi phí sản xuất, liên tục báo “lỗ giả-lãi thật” và luôn có cơ hội là xin tăng giá, kích thích cơ chế xin-cho, đổ gánh nặng chi phí và rủi ro lên vai người tiêu dùng hoặc nhà nước, trong khi gạt bỏ những nhà đầu tư hiệu quả, khiến nhiều nguồn lực đầu tư bị tắc nghẽn, tạo căng thẳng cung-cầu tiêu dùng giả tạo và bức xúc xã hội cao trên thực tế.

Thứ hai, cho phép doanh nghiệp độc quyền tự định giá thị trường khi chưa có cạnh tranh đầy đủ theo quy trình và điều kiện của quy luật kinh tế thị trường.

Thực hiện cơ chế giá cả và cạnh tranh thị trường cho các doanh nghiệp trở thành định hướng chung, nhất quán của nhà nước theo yêu cầu hội nhập. Tuy nhiên, chỉ có được giá thị trường khi có sự liên thông trực tiếp, cạnh tranh đầy đủ và sự kiểm soát cạnh tranh thị trường lành mạnh. Nếu trước khi có cạnh tranh thị trường mà cho phép các doanh nghiệp tự định giá là tạo cơ hội cho tăng giá độc quyền, biến độc quyền Nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp, là mang lại lợi ích độc quyền kép cho doanh nghiệp độc quyền, vì vừa không phải cạnh tranh thị trường, vừa được áp giá độc quyền. Việc thiếu sự minh bạch và thông tin giải trình về tăng giá, công tác kiểm toán và giám sát đầu tư các ngành này còn nhiều khoảng trống… sẽ dễ làm tăng hiện tượng giá cả bị bóp méo vì lợi ích nhóm và lối tư duy nhiệm kỳ, gia tăng hiện tượng thất thoát, thất thu sử dụng kinh phí sai mục tiêu và quy định trong hoạt động kinh doanh của các “đại gia” hàng đầu đất nước này.

Hơn nữa, khi các tập đoàn và doanh nghiệp độc quyền có ý thức liên kết, lũng đoạn thị trường, mượn danh hiệp hội, mượn danh thị trường, lạm dụng và trở thành công cụ tập hợp, vận động chính sách, gây sức ép với các cơ quan chức năng và người tiêu dùng, bất chấp Luật Cạnh tranh, thì hệ lụy càng nặng nề.

Thứ ba, neo giá cố định kéo dài bất chấp những biến động thị trường hoặc ổn định giá thị trường bằng độc quyền kinh doanh và duy trì giãn cách cao giá trong nước và nước ngoài.

Cần tránh duy trì cứng nhắc giá cả của mặt hàng nào đó tiêu thụ trong nước bất chấp sự tăng giá mạnh của nó trên thế giới làm tăng mức bù lỗ khổng lồ vượt quá sức chịu đựng của ngân sách Nhà nước, làm tăng tình trạng buôn lậu qua biên giới kiếm chênh lệch giá, tăng cơ hội đầu cơ, tham nhũng và gian lận thương mại khác liên quan đến mặt hàng phải nhập khẩu này. Những bài học đắt giá thời bao cấp cách đây chưa lâu vẫn còn giữ nguyên tính thời sự trong thực tiễn nước ta thời mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ tư, thả nổi hoàn toàn giá cả thị trường.

Việc thả nổi hoàn toàn giá cả trong nước theo thị trường thế giới trong khi cơ chế và các thể chế thị trường trong nước chưa đồng bộ, đầy đủ và phát triển hoàn thiện sẽ khiến nền kinh tế, các doanh nghiệp và cả đời sống nhân dân trong nước gặp nhiều khó khăn, làm tăng bất ổn ngoại nhập. Hơn nữa, không thể máy móc điều chỉnh tốc độ tăng giá trong nước khớp hoàn toàn với mức độ tăng giá thế giới, vì lẽ các nhân tố ảnh hưởng đến mức tăng giá cả ở các nước khác nhau không hoàn toàn giống hệt nhau do có sự khác biệt giữa chúng về yêu cầu chính sách, mục tiêu phát triển, đặc điểm cơ cấu sản xuất và tiêu dùng địa phương, mức sống thực tế và một số nhân tố khác...

Thứ năm, điều chỉnh giá trong nước theo lộ trình kế hoạch cứng nhắc.

Việc điều chỉnh giá theo một lộ trình kế hoạch hóa cứng nhắc và được công khai rộng rãi sẽ gây hiện tượng đầu cơ găm hàng trục lợi từ sự lệch giá trước và sau “giờ G” của những đợt tăng giá theo kế hoạch đã được công khai và thực thi cứng nhắc. Hơn nữa, trong bối cảnh thị trường nhiều biến động, giá có thể lên, xuống và các nhân tố ảnh hưởng đến chúng cũng thay đổi cả trên phạm vi quốc tế và quốc gia, nên việc điều chỉnh giá cứng nhắc theo lộ trình thời gian và mức tăng được lập trình sẵn sẽ gây ra những hệ quả cả được dự báo trước lẫn bất ngờ.

Thứ sáu, chỉ điều chỉnh giá tăng một chiều, chậm hoặc không điều chỉnh khi giá giảm.

Việc điều chỉnh giá (nhất là giá độc quyền) chỉ theo hướng tăng, mà không hoặc chậm điều chỉnh giảm khi cơn sốt giá quốc tế đã hạ nhiệt là “lợi bất cập hại”, cái lợi thu được nhỏ và có tính ngắn hạn so với cái mất, vì trước hết gây thiệt hại kinh tế cho người tiêu dùng, làm giảm sự công bằng và điều kiện cạnh tranh lành mạnh thị trường, thậm chí còn làm suy giảm lòng tin, độ tín nhiệm của dân chúng và doanh nghiệp vào năng lực điều hành chính sách của Chính phủ. Hơn nữa, sự chậm trễ trong phản ứng chính sách quản lý giá còn nuôi dưỡng tật xấu và đặc quyền của các doanh nghiệp độc quyền ưa kêu ca đòi Nhà nước bù lỗ khi giá lên và “ngậm miệng ăn tiền” khi giá xuống. Thậm chí, việc duy trì giá độc quyền cao được cộng hưởng bởi sự tăng giá quốc tế (mặc dù đã giảm) còn trực tiếp tạo xung lực làm tăng tổng mặt bằng giá xã hội trong nước với bao hệ lụy đi kèm khó lường.

Có thể nói, định kiến chính sách chỉ điều chỉnh giá lên, chậm hoặc không điều chỉnh giá xuống là tàn dư điển hình của tư duy cũ, thời bao cấp, cần được nhận thức đầy đủ để kiên quyết khắc phục trong quản lý giá cả thời kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

Thứ bảy, quản lý giá thuần túy “siêu hình”, tách rời việc hoàn thiện cơ chế cạnh tranh kinh tế thị trường, điều chỉnh tỷ giá bản tệ thích ứng, tách rời mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong khi điều chỉnh tăng giá.

Việc tăng giá trong nước theo mức tăng giá thế giới sẽ bị mất hiệu quả tích cực, hoặc thậm chí bị lạm dụng vì lợi ích cục bộ, nếu thiếu coi trọng thường xuyên việc hoàn thiện thể chế quản lý kinh tế thị trường, phát triển và vận hành thông suốt đồng bộ các thể chế thị trường cần thiết, mở rộng tự do hóa cạnh tranh thị trường lành mạnh, chống các hoạt động đầu cơ, bán phá giá và các gian lận thương mại khác...

Đồng thời, cần gắn việc điều chỉnh tăng giá với các biện pháp cần thiết nhằm kiểm soát các chi phí hợp lý, giảm thiểu tình trạng “té nước theo mưa”, “mượn gió bẻ măng”, tăng giá thu lợi nhuận không chính đáng do thiếu hợp lý hóa các chi phí sản xuất-kinh doanh. Không thể chấp nhận tình trạng một ngành độc quyền cứ tự đề xuất và tự cho phép tăng giá với đủ thứ lý do..., trong khi bộ máy quản lý kềnh càng, năng suất lao động thấp, đồng vốn đầu tư kém hiệu quả và thu nhập của cán bộ công nhân viên, nhất là lãnh đạo, thì cứ cao ngất so với các ngành, lĩnh vực khác.

Là giá cả của tiền và phản ánh tổng hòa tương quan mức giá chung xã hội trên thị trường trong nước so với thị trường nước ngoài, tỷ giá bản tệ không thể cô lập với các biến động giá trên thị trường hàng hóa và dịch vụ thông thường. Việc điều chỉnh tăng giá các hàng hóa, dịch vụ là đồng nghĩa với việc tăng tỷ giá, giảm giá trị đồng bản tệ. Nếu không có sự điều chỉnh thích ứng tỷ giá bản tệ theo hướng này sẽ dẫn tới việc định giá đồng bản tệ quá cao, làm mất lợi thế và sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, giảm kim ngạch hoặc hiệu quả từ xuất khẩu, kinh tế trong nước từ đó có thể đình đốn và những hệ lụy kinh tế-xã hội khác sẽ nổi lên...

Nếu tăng giá chỉ vì lợi ích kinh doanh thuần túy của một ngành, tập đoàn trong bối cảnh cạnh tranh thị trường chưa đầy đủ và thiếu các thiết chế đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, nhất là tầng lớp có thu nhập thấp, thì việc tăng giá đó chưa đạt được hiệu quả xã hội cần thiết trong quản lý Nhà nước về giá cả. Bởi vậy, cần tùy theo tình hình thực tiễn, nhất là căn cứ vào đánh giá và dự báo xu hướng biến động giá và tác động của tăng giá đến đời sống kinh tế-xã hội mà lựa chọn các phương án tăng giá tối ưu, thậm chí nếu cần vẫn không nên loại trừ sự hỗ trợ nhất thời của Nhà nước để duy trì giá ở mức ít gây hại lớn nhất đến đời sống thực tế của đa số người tiêu dùng hoặc để duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế cần thiết cho đất nước theo những ưu tiên được lựa chọn.

Về tổng thể, để quản lý giá mang tính thị trường và hiệu quả xã hội cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, cần kiên quyết khắc phục các định kiến chính sách tàn dư của tư duy bao cấp; cần tránh ngộ nhận và cả kỳ vọng vào quyền lực quản lý Nhà nước về giá thị trường, nhất là việc đưa ra những công thức tính toán và cơ chế, quy trình quản lý giá hết sức chi tiết, phức tạp, tưởng chặt hoá lỏng, vừa khiến các doanh nghiệp bị bó buộc, khó khăn trong hoạt động linh hoạt theo thị trường, vừa dễ lạm dụng làm ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng.

Ngoài ra, cần sớm tách biệt và minh bạch hoá các nhiệm vụ chính trị với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có tính độc quyền, nhằm giảm thiểu sự lạm dụng, mập mờ, nhân danh nhiệm vụ chính trị mà hạch toán giành lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp và lợi ích nhóm, ngành, đẩy lỗ tối đa cho Nhà nước hoặc tranh thủ “móc túi” người tiêu dùng…

Nhận diện những ngộ nhận và xử lý những hệ lụy nêu trên sẽ tạo động lực mới thúc đẩy hành trình tiến tới thể chế giá thị trường lành mạnh, bảo đảm sự minh bạch và công bằng, hài hòa về lợi ích xã hội có kiểm soát của Nhà nước, sự tuân thủ các quy luật, nguyên tắc, quy trình thị trường, các cam kết hội nhập quốc tế và thông lệ thế giới...