“Xung lực mới” cho đầu tư nước ngoài

TS. Phan Hữu Thắng

(Tài chính) Với những giải pháp mạnh mẽ và có nhiều điểm mới, Nghị quyết 103 là mấu chốt để có thể nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng và quản lý đầu tư nước ngoài (ĐTNN) trong thời gian tới. Tuy nhiên, “thành-bại” phụ thuộc rất lớn vào nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương trong việc tổ chức thực hiện có chất lượng, đúng hạn các việc được giao.

“Xung lực mới” cho đầu tư nước ngoài
Nghị quyết 103 là mấu chốt để có thể nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng và quản lý đầu tư nước ngoài trong thời gian tới. Nguồn: internet
Đầu tư nước ngoài là nguồn lực quan trọng của nền kinh tế

Cuối tháng 3/2013, Hội nghị tổng kết 25 năm ĐTNN tại Việt Nam đã được tổ chức. Tại Hội nghị, ĐTNN được đánh giá là đã góp phần quan trọng vào thành tựu tăng trưởng và phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng tại Hội nghị này vẫn còn khá nhiều vấn đề liên quan đến chất lượng thu hút ĐTNN cũng đã được bàn thảo sôi nổi để tìm giải pháp tháo gỡ. Trên cơ sở đánh giá rõ các thành tựu, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế của ĐTNN trong 25 năm qua, Nghị quyết 103/NQ-CP, ngày 29/08/2013 của Chính phủ về định hướng nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng và quản lý ĐTNN trong thời gian tới đã được ban hành. Đây thực sự là một “xung lực mới” đối với ĐTNN tại Việt Nam.

Những đóng góp của khu vực ĐTNN là không thể phủ nhận, điều này một lần nữa lại được khẳng định tại Nghị quyết 103, trong đó nêu rõ “Kinh tế có vốn ĐTNN là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được Nhà nước khuyến khích phát triển lâu dài, được bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và đối xử bình đẳng trên cơ sở hợp tác cùng có lợi, thực hiện theo đúng cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia”.

ĐTNN là nguồn lực quan trọng của nền kinh tế, cùng nguồn lực trong nước tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tái cơ cấu nền kinh tế. Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính lũy kế đến tháng 9/2013, cả nước có 15.298 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 223 tỷ USD. Con số đó đã cho thấy phần nào đóng góp to lớn của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội, chiếm 22,75% tổng vốn đầu tư xã hội trong giai đoạn 2001-2011, riêng năm 2012 chiếm khoảng 23,3%.

ĐTNN còn góp phần tăng năng lực sản xuất của một số ngành, đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp. Đồng thời, ĐTNN cũng có tác động lan tỏa đến các khu vực khác của nền kinh tế, khơi dậy nguồn lực đầu tư trong nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải cách doanh nghiệp nhà nước, đổi mới thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.

Chủ trương khuyến khích ĐTNN hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho Việt Nam từng bước tham gia và cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu. Từ năm 2003, xuất khẩu của khu vực này bắt đầu vượt khu vực trong nước và dần trở thành nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu (chiếm khoảng 64% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012). Nhờ đó, cán cân thanh toán quốc tế được cải thiện, đóng góp ngày càng nhiều vào ngân sách (khoảng 3,7 tỷ USD năm 2012).

Một đóng góp quan trọng khác của ĐTNN là đã tạo thêm nhiều việc làm mới, hiện có khoảng trên 2 triệu lao động trực tiếp và từ 3-4 triệu lao động gián tiếp hoạt động trong khu vực này...

Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, thu hút ĐTNN thời gian qua chưa đạt được một số mục tiêu kỳ vọng, như: thu hút công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghiệp hỗ trợ, đầu tư phát triển hạ tầng và chuyển giao công nghệ… Chất lượng của dự án ĐTNN nhìn chung chưa cao, giá trị gia tăng thấp, chủ yếu là quy mô vừa và nhỏ, sự tham gia đầu tư theo chuỗi sản xuất của các tập đoàn xuyên quốc gia còn hạn chế. Một số doanh nghiệp ĐTNN sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường; một số khác lại có biểu hiện dùng thủ đoạn chuyển giá để gian lận kinh tế, trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách nhà nước…

5 nhóm giải pháp tạo “xung lực mới”

Để nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng và quản lý ĐTNN trong thời gian tới, Nghị quyết 103 đã định hướng rõ: Chọn lọc các dự án có chất lượng, có công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường, đặc biệt trong các lĩnh vực: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, phát triển kết cấu hạ tầng, nghiên cứu và phát triển (R&D)…; Thu hút các dự án quy mô lớn, sản phẩm có tính cạnh tranh cao, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời chú trọng đến các dự án có quy mô vừa và nhỏ phù hợp với từng ngành, địa phương; Thực hiện quy hoạch thu hút ĐTNN, khuyến khích sự liên kết giữa các doanh nghiệp ĐTNN với nhau và với doanh nghiệp trong nước.

Nhằm thực hiện các định hướng trên và nhanh chóng xóa bỏ các nguyên nhân dẫn đến hạn chế của ĐTNN, Nghị quyết 103 đã đề ra 5 nhóm giải pháp chủ yếu:

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến đầu tư theo hướng nhất quán, công khai, minh bạch, có tính dự báo, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư và có tính cạnh tranh so với các nước trong khu vực.

Để hoàn thiện khung khổ pháp lý về đầu tư, có nhiều các tiểu đề án cần làm, như: Nghiên cứu sửa đổi Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp cho phù hợp bối cảnh mới; Rà soát tổng thể hệ thống luật pháp hiện hành liên quan đến đầu tư, kinh doanh theo hướng đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ với các quy định của Luật Đầu tư; Quy định rõ hơn những đặc thù về thủ tục và điều kiện đầu tư đối với nhà ĐTNN; Rà soát các quy định về hoạt động mua bán và sáp nhập có yếu tố nước ngoài để đồng bộ hóa và quy định cụ thể, rõ ràng hơn.

Bên cạnh đó, tập trung sửa đổi chính sách ưu đãi đầu tư; Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút ĐTNN vào công nghiệp phụ trợ; Điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích nhà đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng; Hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích thu hút các dự án công nghệ cao; Hoàn thiện các quy định nhằm hướng dẫn và kiểm soát môi trường; Hoàn thiện quy định nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý ngoại hối, tín dụng; Hoàn thiện quy định tăng cường quản lý lao động trong các doanh nghiệp ĐTNN; Hoàn thiện quy định về đất đai, nhà ở. Ngoài ra, cần có đánh giá cụ thể về tác động của việc đến năm 2015, Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết mở cửa thị trường trong khuôn khổ AFTA.

Thứ hai, điều chỉnh một số nguyên tắc quản lý và phân cấp đầu tư.

Cụ thể: Khẩn trương xây dựng cơ chế phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về ĐTNN; Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp việc cấp giấy chứng nhận đầu tư; Tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện việc phân cấp quản lý hoạt động ĐTNN trong các lĩnh vực như đất đai, công nghệ, môi trường, lao động, xuất nhập khẩu...; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với các dự án có vốn ĐTNN đã được cấp, điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư; Quy định chế tài đủ mạnh và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định của pháp luật.

Thứ ba, hoàn thiện tiêu chí cấp giấy chứng nhận đầu tư.

Nghị quyết 103 đã xác định rõ, các bộ, ngành cần quy định chi tiết, rõ ràng các tiêu chí, điều kiện đầu tư trong lĩnh vực phụ trách làm căn cứ cho việc cấp phép và quản lý sau cấp phép (suất đầu tư, tiêu chuẩn và yêu cầu kỹ thuật, công nghệ, môi trường...). Đặc biệt, đối với dự án có quy mô lớn, có tác động lớn về kinh tế, xã hội, cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư cần có các chế tài hoặc yêu cầu đặt cọc để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ triển khai dự án đúng tiến độ. Đây là một trong các nội dung mới có tính pháp lý đối với việc cấp giấy chứng nhận đầu tư trong thời gian tới.

Thứ tư, đổi mới hoạt động xúc tiến đầu tư.

Để khắc phục tình trạng chồng chéo, kém hiệu quả trong hoạt động xúc tiến đầu tư thời gian qua, tại Nghị quyết 103, Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư hàng năm và từng thời kỳ dựa trên nhu cầu thực tế mà ban hành bộ tiêu chí hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch xúc tiến đầu tư. Cùng với đó, phải thường xuyên cập nhật, nghiên cứu xu hướng dòng vốn ĐTNN và các đối tác tiềm năng để chủ động tiếp cận và xúc tiến giới thiệu các dự án. Đặc biệt, tại nhóm giải pháp này, Nghị quyết 103 đã chính thức xác định một nội dung quan trọng, đó là: “coi trọng xúc tiến đầu tư tại chỗ, theo đó, cần tăng cường hỗ trợ các dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư để các dự án này triển khai hoạt động một cách thuận lợi, có hiệu quả”.

Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư.

Bên cạnh các yêu cầu đối với các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư phải tăng cường kiểm tra, giám sát các dự án ĐTNN, cũng như giám sát quá trình cấp phép, quản lý sau cấp phép… Nghị quyết 103 còn quy định rõ, hàng quý phải rà soát, phân loại các dự án ĐTNN để có hướng xử lý thích hợp đối với các dự án có khó khăn. Đồng thời, Nghị quyết 103 còn giao các bộ, ngành, địa phương thực hiện 2 đề án: Rà soát, chấn chỉnh công tác giải quyết tranh chấp liên quan đến ĐTNN; Xây dựng hệ thống thông tin quốc gia về ĐTNN.

Cần sự quyết tâm thực hiện

Với 5 nhóm giải pháp trên, Chính phủ đã giao cho các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện 60 đề án, thời hạn hoàn thành vào năm 2014. Trong đó, có tới 31 đề án (chiếm trên 50% số lượng đề án) phải hoàn thành để trình Thủ tướng Chính phủ trong quý IV/2013. Tất cả các đề án nêu tại Nghị quyết 103 đều rất quan trọng, có ảnh hưởng đến việc hoàn thiện, nâng cao sức cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam. Nếu được tổ chức thực hiện đồng bộ, đúng hạn, sẽ đảm bảo cho việc tăng cường thu hút, sử dụng ĐTNN có hiệu quả tại Việt Nam trong thời gian tới.

Tuy nhiên, từ thực tế thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quyết định của các bộ, ngành, địa phương trước đây đối với các đề án của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao (như việc thực hiện Chỉ thị số 1617/CT-TTg, ngày 19/09/2011 về việc tăng cường thực hiện và chấn chỉnh công tác quản lý ĐTNN nhưng đã bị triển khai rất chậm, một số còn chưa được triển khai, nên được nhắc lại trong Nghị quyết 103 lần này) và từ góc độ nghiên cứu, có thể thấy thời hạn phải hoàn thành (trên 50% đề án trong quý IV/2013) là quá ngắn và quá gấp.

Không nên để lặp lại tình trạng "nợ khó đòi" trong lĩnh vực hoạch định chính sách. Bởi vì, việc thực hiện đề án là không đơn giản, độ phức tạp cao, đòi hỏi phải xử lý được toàn bộ các vấn đề liên quan khác về pháp luật (để bảo đảm sự nhất quán, thống nhất của hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư), về kinh tế (để bảo đảm tính hiệu quả), về thông lệ đầu tư quốc tế (để đảm bảo tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký…) đối với từng đề án. Do vậy, các đơn vị được giao làm đầu mối thực hiện các đề án cần tập trung nguồn lực, thời gian mới có thể hoàn thành đúng hạn với chất lượng cao.

Tính cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam có được nâng cao hay không, tăng trưởng và hiệu quả thu hút, sử dụng ĐTNN trong thời gian tới có được cải thiện hay không, sẽ phụ thuộc vào việc tổ chức thực hiện Nghị quyết 103 của Chính phủ đã ban hành.
__________________

Tài liệu tham khảo:

1. Chính phủ (2013). Nghị quyết 103/NQ-CP, ngày 28/09/2013 về định hướng nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng và quản lý đầu tư nước ngoài trong thời gian tới

2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013). Kỷ yếu Hội nghị 25 năm đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam