Cải cách thuế - Luồng gió mới cho cộng đồng doanh nghiệp

PV.

Trong thời gian qua, ngành Thuế đã có rất nhiều nỗ lực, cố gắng trong cải cách thủ tục hành chính cũng như sửa đổi, bổ sung nhiều chính sách thuế, đảm bảo phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và hội nhập quốc tế. Những bước tiến quan trọng này đã góp phần tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng hơn, tháo gỡ nhiều khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Những bước đột phá trong công tác điều hành, quản lý thuế

Công tác cải cách hành chính thuế nói riêng, cải cách thủ tục hành chính nói chung luôn được ngành Thuế ưu tiên quan tâm hàng đầu cùng với nhiệm vụ quản lý thu ngân sách Nhà nước. Chính vì thế, tốc độ cải cách thuế diễn ra với mức độ nhanh và mạnh mẽ trong thời gian vừa qua.

Đặc biệt là, năm 2014, Việt Nam đã đạt được những kết quả đột phá trong cải cách thủ tục hành chính thuế, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Cụ thể là, Thông tư số 119/2014/TT-BTC ngày 25/8/2014 sửa đổi, bổ sung 7 thông tư về thuế được thực hiện ngay từ ngày 01/9/2014, giúp giảm được 201,5 giờ/năm. Nghị định số 91/2014/NĐ-CP ngày 01/10/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của 4 nghị định về thuế giúp giảm số giờ nộp thuế thêm khoảng 88,36 giờ/ năm (trong đó thuế giá trị gia tăng (GTGT) giảm 41,36 giờ và thuế TNDN giảm 47 giờ).

Việc thực hiện Luật sửa đổi một số điều của 5 Luật Thuế ước tính sẽ giảm thêm 80 giờ/năm thực hiện các thủ tục về thuế. Như vậy, số giờ tuân thủ về thuế đã giảm được 69%, tương đương gần 370 giờ/năm, từ 537 giờ/năm xuống còn 167 giờ/năm. Với kết quả đã đạt được, nhiệm vụ của cơ quan thuế trong năm 2015 là phải cắt giảm thêm được 45,5 giờ nữa, để đạt được mục tiêu giảm số giờ tuân thủ về thuế xuống còn 121,5 giờ/năm (mức trung bình của nhóm nước ASEAN-6).

Năm 2014 là một năm có dấu ấn đặc biệt đối với cải cách hệ thống thuế. Cơ quan thuế đang thực hiện mục tiêu “kép” về cải cách hành chính thuế nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí cho người dân, doanh nghiệp, phấn đấu giảm số giờ tuân thủ thuế của doanh từ 872 giờ/năm xuống còn 171 giờ/năm theo Nghị quyết số 19/2014 của Chính phủ; đồng thời phấn đấu để đạt mục tiêu của Chiến lược cải cách hệ thống thuế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là: giảm thời gian thực hiện thủ tục hành chính thuế, trở thành một trong năm nước đứng đầu khu vực Đông Nam Á được xếp hạng có mức độ thuận lợi về thuế.

Ngành Thuế đã quyết liệt trong việc sửa đổi cơ chế, chính sách về thuế đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Cụ thể là, ngành Thuế đã ban hành 1 Thông tư sửa 7 Thông tư, trình Chính phủ ban hành 1 Nghị định sửa 4 Nghị định; tham mưu cho Bộ Tài chính Chính phủ trình Quốc hội 1 Luật sửa 5 Luật nhằm tạo điều kiện tối đa cho người người nộp thuế và doanh nghiệp, giảm số giờ tuân thủ về thuế. Với các giải pháp đã ban hành tại các văn bản pháp quy này, tính đến 1/1/2015 số giờ nộp thuế giảm được khoảng 370 giờ.

Không dừng lại ở những kết quả đó, từ đầu năm 2015 đến nay, với việc tiếp tục sửa đổi các quy trình nghiệp vụ trong kê khai, khấu trừ thuế GTGT của doanh nghiệp và thủ tục kê khai thuế TNDN theo Thông tư số 26/2015/TT-BTC và Thông tư số 96/2015/TT-BTC ngày 22/6/2015 hướng dẫn thi hành Nghị định số 12/2015/NĐ-CP (nội dung về thuế TNDN) đã giúp giảm thêm 40 giờ cho người nộp thuế.

Bên cạnh các giải pháp về chính sách, Tổng cục Thuế còn đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin để vừa tiết kiệm thời gian, chi phí của doanh nghiệp, vừa hạn chế sự can thiệp, tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ thuế với doanh nghiệp trong quá trình khai thuế, tính thuế.

Chính sách thuế dành nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp

Năm 2015, cộng đồng DN đã nhận thấy luồng gió mới đến với môi trường kinh doanh, do những nỗ lực cải cách thủ tục hành chính thuế đem lại. Điều đó đã được cộng đồng DN ghi nhận khi có tới 92% DN tham gia cuộc khảo sát của VCCI đánh giá cải cách về thể chế rất tốt.

Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, đòi hỏi các chính sách thuế cũng như công tác quản lý, hành thu cần phải sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với tình hình thực tế. Trước yêu đó, ngành Thuế cũng đã tập trung nhiều giải pháp đồng bộ để tập trung cầu cải cách thuế cũng như ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp điều kiện hiện nay.

Theo các chuyên gia, hệ thống thuế được cải cách theo hướng tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, đầu tư, đổi mới công nghệ, đảm bảo phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và hợp tác quốc tế về thuế,

Chính sách thuế dành nhiều ưu đãi cho các DN ở các lĩnh vực khuyến khích đầu tư, có tác động lan tỏa tới nhiều lĩnh vực khác trong nền kinh tế. Phạm vi của các hình thức ưu đãi thuế chủ yếu phụ thuộc vào lĩnh vực, địa bàn triển khai dự án đầu tư và áp dụng cho DN được thành lập mới.

Ưu đãi thuế TNDN được xem xét theo địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, ngành nghề đặc biệt khuyến khích đầu tư vào trong các lĩnh vực có khả năng lan tỏa, hỗ trợ các ngành, các lĩnh vực khác như: Công nghệ cao, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, chế biến nông sản, sử dụng nhiều lao động và sản xuất phần mềm. DN đầu tư vào các lĩnh vực ưu đãi có quy mô lớn, công nghệ cao, thì thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi có thể lên tới 30 năm.

Với chính sách ưu đãi này, Nhà nước không chỉ hỗ trợ nâng cao năng lực tài chính và khả năng tích lũy vốn một cách trực tiếp cho DN hoạt động trong các lĩnh vực nêu trên mà còn gián tiếp hỗ trợ toàn bộ các DN khác trong nền kinh tế nhờ tác động lan tỏa của ưu đãi.

Hệ thống thuế được cải cách theo hướng tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, đầu tư, đổi mới công nghệ, đảm bảo phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và hợp tác quốc tế về thuế, có lộ trình, bước đi thích hợp để thực hiện bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện, có thời hạn sản xuất trong nước, góp phần tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế.