Tăng cường ngoại giao kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước


Thời gian qua, Bộ Tài chính đã chủ động triển khai nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy và mở rộng quan hệ với các đối tác song phương, đa phương và các tổ chức quốc tế; tăng cường tham gia đàm phán các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế quan trọng... Qua đó, góp phần thực hiện các nhiệm vụ của ngành Tài chính, hỗ trợ tăng trưởng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hiện thực hóa chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Ảnh minh hoạ. Nguồn: internet
Ảnh minh hoạ. Nguồn: internet

Đặt vấn đề

Ngày 15/4/2010, Ban Bí thư khoá X đã ban hành Chỉ thị số 41-CT/TW về tăng cường công tác ngoại giao kinh tế (NGKT) trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước. Thực hiện chủ trương của Đảng và chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương thực hiện các nhiệm vụ về hội nhập kinh tế quốc tế (KTQT); Tiến trình hội nhập quốc tế ngành Tài chính đã được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực như: Thuế xuất khẩu; thuế nhập khẩu; thuận lợi hóa thương mại và hải quan; dịch vụ chứng khoán; dịch vụ bảo hiểm; dịch vụ kế toán; kiểm toán; tư vấn thuế, tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thuế đánh vào thu nhập và tài sản, đàm phán và ký kết các hiệp định, thỏa thuận vay nợ, viện trợ của nước ngoài, các hiệp định hỗ trợ hành chính và hợp tác hải quan với các nước...

Nhiều kết quả quan trọng đạt được đã góp phần thực hiện thành công các nhiệm vụ chung của ngành Tài chính; hỗ trợ tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội (KT-XH); thúc đẩy tái cấu trúc, cải thiện môi trường kinh doanh nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương CNH-HĐH đất nước.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá kết quả và những tồn tại hạn chế trong triển khai công tác NGKT theo định hướng của Ban Bí thư Khóa X của Bộ Tài chính thời gian qua, bài viết rút ra một số kinh nghiệm, đề xuất phương hướng đối với công tác NGKT, đáp ứng yêu cầu bối cảnh mới.

Kết quả tích cực trong triển khai công tác ngoại giao kinh tế

Thực tiễn cho thấy, sau 10 năm triển khai đường lối NGKT của Ban bí thư Khoá X định hướng tại Chỉ thị số 41-CT/TW, công tác NGKT của Bộ Tài chính đã đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần thực hiện các nhiệm vụ của ngành Tài chính; hỗ trợ tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH và hiện thực hóa chủ trương CNH-HĐH đất nước. Cụ thể:

Kết quả triển khai công tác ngoại giao kinh tế  theo Chỉ thị số 41-CT/TW

Thứ nhất, chủ động tham gia các diễn đàn đa phương, thúc đẩy hợp tác tài chính và mở rộng quan hệ với các đối tác.

Bộ Tài chính đã chủ trì tổ chức và đảm nhiệm vai trò chủ tịch các tiến trình hợp tác tài chính quan trọng như: Tiến trình Bộ trưởng Tài chính APEC năm 2017; Tiến trình Bộ trưởng Tài chính ASEAN năm 2020; Hợp tác Tài chính ASEAN+3 năm 2020... Thông qua đó, các sáng kiến quan trọng trong hội nhập và hợp tác tài chính khu vực đã được triển khai, thể hiện rõ vai trò của ngành Tài chính Việt Nam trong tiến trình hội nhập tài chính khu vực.

Bộ Tài chính đã làm tốt vai trò hợp tác với các tổ chức quốc tế (IMF, WB, ADB, UN…); Kịp thời trao đổi, đối thoại về tình hình kinh tế vĩ mô, chính sách tài khóa, chính sách huy động vốn và các chương trình cải cách quản lý tài chính công của Việt Nam; Vận động các tổ chức quốc tế tiếp tục dành nguồn lực tài chính và kỹ thuật hỗ trợ Việt Nam nói chung và Bộ Tài chính nói riêng thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH trong giai đoạn 2016-2020.

Thứ hai, tích cực tham gia đàm phán các hiệp định thương mại tự do trong khuôn khổ song phương và khu vực.

Bộ Tài chính đã thực hiện tốt vai trò quan trọng trong công tác đàm phán, thực thi nghiêm túc các cam kết Hiệp định thương mại tự do (FTA), cũng như tích cực tham gia các chương trình hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực tài chính. Các phương án đàm phán về các lĩnh vực tài chính, trong đó có lĩnh vực thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam đã được Bộ Tài chính xây dựng tuân thủ quy trình lấy ý kiến và trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Những cam kết hội nhập trong lĩnh vực tài chính được triển khai thời gian qua gồm: (i) Các cam kết về thuế quan, gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu, trong đó cam kết về thuế nhập khẩu thể hiện rõ qua khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và từng FTA; (ii) Cam kết về dịch vụ tài chính, gồm: chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và các dịch vụ tài chính khác như thuế, kế toán kiểm toán và ghi sổ kế toán; (iii) Các cam kết khác như: thuế nội địa, chính sách quản lý giá, phí hải quan và trị giá hải quan, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và các biện pháp trợ cấp khác.

Thứ ba, chủ động thực thi nghiêm túc và có hiệu quả các cam kết hội nhập: Để triển khai cam kết cắt giảm thuế quan trong các FTA và các thỏa thuận thương mại đã có hiệu lực, Bộ Tài chính đã chủ trì soạn thảo các nghị định về biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo từng giai đoạn đối với 16 đối tác sau: Việt Nam - Hàn Quốc, Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á-Âu, Việt Nam - Chi-lê, Việt Nam - Nhật Bản, Việt Nam - Liên minh châu Âu, Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia, Việt Nam - Cu-ba, ATIGA, ASEAN -Trung Quốc, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Hàn Quốc, ASEAN - Australia - Newzealand, ASEAN - Hồng Kông, ASEAN - Nhật Bản, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương.

Ngày 21/5/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 53/2021/NĐ-CP về biểu thuế xuất khẩu ưu đãi, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện FTA giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Liên hiệp Vương Quốc Anh và Bắc Ai-len giai đoạn 2021-2022. Bộ Tài chính đã, đang thực hiện công tác chuyển đổi biểu thuế phục vụ ban hành Nghị định thực thi Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực.

Các cam kết về hải quan và tạo thuận lợi thương mại trong các FTA cũng được chuyển hóa thành các Kế hoạch cụ thể và được thực hiện nghiêm túc với mục tiêu tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, đồng thời đảm bảo an ninh và an toàn chuỗi cung ứng toàn cầu.

Triển khai các nhiệm vụ vận động, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư

Giai đoạn 2011 - 2020, Việt Nam đẩy mạnh tận dụng nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài để phục vụ cho đầu tư phát triển đất nước, với tổng trị giá huy động vốn vay đạt trên 40 tỷ USD. Đặc biệt, giai đoạn 2016 - 2020, mặc dù Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, song cũng đã tận dụng tối đa nguồn vốn ODA và vay ưu đãi từ các nhà tài trợ, theo đó, Việt Nam đã ký kết 116 hiệp định vay với các đối tác đa phương và song phương với tổng trị giá khoảng 13 tỷ USD.

Về các chương trình, dự án, trong giai đoạn 2010 – 2020, Bộ Tài chính đã vận động tài trợ và tiếp nhận khoảng 1.035 triệu USD thông qua 66 chương trình, dự án có sử dụng tài trợ nước ngoài, góp phần hỗ trợ thực hiện các nhiệm vụ cải cách quản lý tài chính công và tái cấu trúc DNNN. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đã tranh thủ và tận dụng nguồn lực hỗ trợ trong các khuôn khổ hợp tác đa phương và song phương, vận dụng các thông lệ, chuẩn mực quốc tế nhằm hỗ trợ quá trình cải cách, hiện đại hóa hải quan.

Về triển khai các nhiệm vụ thu hút đầu tư

Xu thế dịch chuyển của dòng vốn đầu tư nước ngoài trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều thay đổi, cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ để thu hút đầu tư, ngày 27/4/2020, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 58/NQ-CP ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.

Bám sát chỉ đạo, định hướng của Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 276/QĐ-BTC ngày 28/2/2020 phê duyệt, tổ chức thực hiện các giải pháp liên quan đến công tác quản lý thuế tại Đề án Mở rộng cơ sở thuế và chống xói mòn nguồn thu ngân sách nhà nước giai đoạn từ 2020 - 2025, từ đó tạo điều kiện cho việc xây dựng, triển khai thực hiện các giải pháp để mở rộng cơ sở thuế và chống xói mòn nguồn thu ngân sách nhà nước.

Đồng thời, Bộ Tài chính đã phối hợp với các cơ quan, ban, ngành để quản lý, kiểm tra nhằm ngăn ngừa và hạn chế tình trạng chuyển giá, chuyển lợi nhuận gây xói mòn nguồn thu, thông qua việc tham mưu đề xuất, đưa nội dung quy định về việc phối hợp với các bộ, ngành vào Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 như: Quy định nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp (DN) có giao dịch liên kết…

Đặc biệt, để góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài, xây dựng các cơ chế tạo thuận lợi cho các DN hoạt động có hiệu quả, Bộ Tài chính đã đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, rà soát bất cập, vướng mắc trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, tích cực phối hợp với các bộ, ngành tạo thuận lợi cho các dự án đầu tư như: (i) Sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến điều kiện kiểm tra, giám sát DN chế xuất tại Nghị định số 18/2021/NĐ-CP; (ii) Xây dựng, hoàn thiện chương trình hỗ trợ DN tuân thủ pháp luật hải quan; (iii) Rà soát bất cập, vướng mắc để đưa vào dự thảo sửa đổi bổ sung Nghị định số 08/2015/NĐ-CP, Nghị định số 59/2018/NĐ-CP…

Định hướng triển khai công tác ngoại giao kinh tế

Phát triển bền vững trở thành xu thế tất yếu toàn cầu. Kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh đang là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn. Khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và Cách mạng công nghiệp 4.0 đã, đang ảnh hưởng sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu, ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Công nghệ số sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước, mô hình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và đời sống xã hội.

Nhờ những thành tựu quan trọng đã đạt được sau 35 năm đổi mới, thế và lực của đất nước đã lớn mạnh hơn nhiều; quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên; tính tự chủ của nền kinh tế được cải thiện. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, niềm tin của cộng đồng DN, người dân và xã hội tăng lên. Chất lượng tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế bước đầu dịch chuyển sang chiều sâu, hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho nền kinh tế được cải thiện đáng kể, độ mở nền kinh tế và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn.

Việc thu hút các nguồn lực từ bên ngoài sẽ góp phần tích cực vào hoàn thiện thể chế kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo nguyên tắc của kinh tế thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Khu vực tư nhân đóng góp ngày càng lớn và trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Chính trị, xã hội ổn định, các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng - an ninh, đối ngoại được quan tâm và có sự chuyển biến tích cực; đời sống người dân không ngừng được cải thiện.

Để triển khai cam kết cắt giảm thuế quan trong các FTA và các thỏa thuận thương mại đã có hiệu lực, Bộ Tài chính đã chủ trì soạn thảo các nghị định về biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo từng giai đoạn đối với 16 đối tác sau: Việt Nam - Hàn Quốc, Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á-Âu, Việt Nam - Chi-lê, Việt Nam - Nhật Bản, Việt Nam - Liên minh châu Âu, Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia, Việt Nam - Cu-ba, ATIGA, ASEAN -Trung Quốc, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Hàn Quốc, ASEAN - Australia - Newzealand, ASEAN - Hồng Kông, ASEAN - Nhật Bản, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Môi trường kinh doanh tuy đã được cải thiện mạnh mẽ song vẫn còn hạn chế so với yêu cầu và xu hướng phát triển. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu; già hóa dân số tăng nhanh dẫn đến áp lực lên hệ thống an sinh xã hội và tác động đến tăng trưởng kinh tế. Tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp, còn phụ thuộc khá nhiều vào các yếu tố bên ngoài. Bên cạnh đó, tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường và các rủi ro về quốc phòng - an ninh cũng là những lực cản cho phát triển kinh tế, tạo sức ép lớn về tài chính - ngân sách. Sự phát triển của các mô hình kinh tế mới ứng dụng công nghệ số, công nghệ thông tin cũng đặt ra thách thức cho quản lý tài chính.

Từ thực tiễn đó, định hướng triển khai công tác NGKT đặt ra trong thời gian tới như sau:

(i) Trong NGKT, phải đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, trước hết; phát huy tối đa lợi thế so sánh của quốc gia trong hợp tác và phân công lao động quốc tế để phát triển đất nước. Phát huy nội lực, tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế tự chủ, cường thịnh.

(ii) NGKT phải thực hiện vai trò mở đường, dẫn dắt, định hướng cộng đồng DN và đội ngũ doanh nhân trong hội nhập kinh tế quốc tế và tận dụng có hiệu quả các FTA đã ký kết.

(iii) NGKT phải kiên trì bảo vệ và tối đa hóa được lợi ích của đất nước trên cơ sở giữ vững độc lập và chủ quyền quốc gia; Thể hiện vai trò tích cực, có trách nhiệm tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế và khu vực, không ngừng góp phần nâng cao vị thế và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.

(iv) NGKT phải đảm bảo được định hướng hội nhập tài chính, kết hợp hài hoà giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài, giữa mục tiêu trong lĩnh vực tài chính với mục tiêu trong các lĩnh vực khác cũng như với mục tiêu tổng thể của quốc gia.

(v) NGKT phải đảm bảo tính chủ động và linh hoạt, phải đóng góp tích cực, trực tiếp vào quá trình hình thành nền tài chính quốc gia hiện đại, trên cơ sở tiếp thu, phát huy có chọn lọc những thông lệ, chuẩn mực quốc tế phù hợp.

Nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, đáp ứng yêu cầu mới

Nhằm thực hiện hiệu quả định hướng đề ra, thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ tập trung triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể sau:

Một là, tiếp tục tích cực, chủ động tham gia định hình các cơ chế hợp tác tài chính khu vực, trọng tâm là hợp tác tài chính trong khu vực ASEAN, ASEAN+3, APEC và tiểu vùng, nổi bật là cơ chế giám sát kinh tế vĩ mô, cơ chế hỗ trợ ổn định cán cân thanh toán (Sáng kiến Chiềng Mai); Phát triển thị trường tài chính ổn định, bền vững.

Hai là, tăng cường đối thoại chính sách và quảng bá kết quả cải cách chính sách tài chính nhằm thu hút và tạo môi trường kiến tạo cho các hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Ba là, hoàn thiện hơn nữa các khung khổ, thỏa thuận hợp tác tài chính với các đối tác quan trọng như các tổ chức tài chính quốc tế; các tổ chức/diễn đàn quốc tế hợp tác chuyên ngành tài chính; các cơ quan quản lý nhà nước về tài chính tại các nước đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác truyền thống của Việt Nam.

Bốn là, phát triển chiều sâu, nâng cao hiệu quả hợp tác tài chính và hoạt động đối ngoại của ngành Tài chính hướng tới kết quả thực chất như: Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về tài chính với các tổ chức/cá nhân tham gia hoạt động kinh tế quốc tế; định hình các công cụ, cơ chế tài chính khu vực hỗ trợ các chức năng quản lý kinh tế vĩ mô, tài chính công, thị trường tài chính, hỗ trợ hoàn thiện thế chế tài chính như tiêu chuẩn/chế độ/chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực tài chính; đối thoại chính sách nhằm nâng cao độ tin cậy trong quan hệ đối tác hợp tác tài chính, đồng thời hoàn thiện chính sách và quảng bá chính sách nhằm thu hút nguồn lực từ bên ngoài; huy động tiếp nhận và quản lý hiệu quả các hoạt động/chương trình hỗ trợ kỹ thuật của các đối tác dành cho Bộ Tài chính.

Năm là, tiếp tục xây dựng và thực thi nghiêm túc các cam kết hội nhập tài chính về thuế, hải quan, dịch vụ bảo hiểm, chứng khoán, kế toán kiểm toán…

Sáu là, tăng cường hiệu quả thực hiện các cam kết hội nhập tài chính thông qua: Nâng cao chất lượng công tác đánh giá và dự báo tác động tới nền kinh tế và ngành Tài chính; Nghiên cứu đề xuất các cơ chế/chính sách bổ sung để đảm bảo an toàn thị trường tài chính trong điều kiện thực hiện đầy đủ cam kế hội nhập thị trường tài chính; Tăng cường và nâng cao hiệu quả thông tin tuyên truyền về lợi ích và thách thức từ thực thi các cam kết tài chính tới các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là cộng đồng DN trong và ngoài nước.

Bảy là, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức về các chủ trương của Đảng và Nhà nước liên quan đến công tác hội nhập kinh tế quốc tế, tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và lợi ích của các FTA... đến cộng đồng DN và người dân.

Tám là, tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam tại nước ngoài và các cơ quan xây dựng chính sách trong nước, nâng cao vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam trong quá trình xây dựng chính sách kinh tế; đồng thời, tăng cường hiện diện của các cơ quan chính sách trong nước tại các đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài.

Tài liệu tham khảo:

1. Toàn văn Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng;

2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 15/4/2010 về tăng cường công tác ngoại giao kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước;

3. Chính phủ, Nghị định số 18/2021/NĐ-CP, Nghị định số 08/2015/NĐ-CP, Nghị định số 59/2018/NĐ-CP;

4. Bộ Tài chính (2020), Quyết định số 276/QĐ-BTC ngày 28/02/2020 về việc phê duyệt, tổ chức thực hiện các giải pháp liên quan đến công tác quản lý thuế tại Đề án Mở rộng cơ sở thuế và chống xói mòn nguồn thu ngân sách nhà nước.

(*) ThS. Trần Thị Thu Huyền, ThS. Nguyễn Thị Thu Hiền, Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Tài chính).

(**) Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 2 tháng 7/2021.