Tập trung thực hiện hiệu quả 9 nhiệm vụ trọng tâm, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tài chính – ngân sách nhà nước năm 2019

Đinh Tiến Dũng - Bộ trưởng Bộ Tài chính

Phát biểu về việc thực hiện nhiệm vụ tài chính – ngân sách nhà nước năm 2019 tại Hội nghị Tổng kết công tác năm 2018 và triển khai nhiệm vụ tài chính – NSNN năm 2019 của Bộ Tài chính, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng nhấn mạnh: Việc triển khai nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2019 diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội đất nước tiếp tục có những chuyển biến, song cũng còn nhiều khó khăn. Bộ Tài chính tin tưởng với sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương và với quyết tâm cao của cán bộ, công chức toàn Ngành, ngành Tài chính nhất định sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Chính phủ giao. Tapchitaichinh.vn giới thiệu phát biểu của Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng về việc triển khai nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2019 của ngành Tài chính.

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng phát biểu về việc thực hiện nhiệm vụ tài chính – ngân sách nhà nước năm 2019 tại Hội nghị Tổng kết công tác năm 2018 và triển khai nhiệm vụ tài chính – NSNN năm 2019 của Bộ Tài chính.
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng phát biểu về việc thực hiện nhiệm vụ tài chính – ngân sách nhà nước năm 2019 tại Hội nghị Tổng kết công tác năm 2018 và triển khai nhiệm vụ tài chính – NSNN năm 2019 của Bộ Tài chính.

Bám sát chủ đề "Kỷ cương, liêm chính, hành động, bứt phá, sáng tạo, phát triển"

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 theo Nghị quyết Quốc hội đặt ra các mục tiêu mức tăng trưởng khoảng 6,6-6,8%, tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) khoảng 4%, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 7-8%, tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu dưới 3%, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 33-34%GDP... Năm 2019, bên cạnh những thuận lợi, dự báo cũng còn nhiều khó khăn, thách thức từ cả môi trường quốc tế và nội tại của nền kinh tế.

Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; căng thẳng thương mại giữa các nước lớn gia tăng; rủi ro về giá dầu và các yếu tố bất định trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng; bất ổn địa chính trị, chủ nghĩa bảo hộ và các thách thức an ninh phi truyền thống diễn biến ngày càng phức tạp. Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế trong nước, chuyển đổi mô hình tăng trưởng còn chậm; diễn biến thời tiết, thiên tai bất thường; nguy cơ dịch bệnh bùng phát, có tác động bất lợi đến sự phát triển kinh tế - xã hội và việc thực hiện các nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2019. Do đó, đòi hỏi phải quyết tâm, nỗ lực phấn đấu của toàn ngành Tài chính nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ tài chính - NSNN đã đề ra.

Căn cứ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN đã được Quốc hội thông qua, bám sát chủ đề "Kỷ cương, liêm chính, hành động, bứt phá, sáng tạo, phát triển" và 4 trọng tâm chỉ đạo điều hành năm 2019 của Chính phủ, Bộ Tài chính xác định mục tiêu, nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2019 như sau:

 Mục tiêu tổng quát của ngành Tài chính năm 2019 gồm: Tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, hiệu quả, phối hợp đồng bộ với chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; tăng cường kỷ luật tài chính - NSNN; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; cơ cấu lại NSNN và nợ công theo hướng an toàn, bền vững, tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển, gắn với đẩy mạnh sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, đổi mới khu vực sự nghiệp công; tăng cường quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực tài chính nhà nước gắn với huy động các nguồn lực xã hội để thúc đẩy phát triển kinh tế, thực hiện tốt nhiệm vụ an sinh xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng.

Các nhiệm vụ chủ yếu về NSNN năm 2019 gồm:

Thứ nhất, về thu NSNN: Dự toán thu là 1.411,3 nghìn tỷ đồng; trong đó: dự toán thu nội địa 1173,5 nghìn tỷ đồng; dự toán thu dầu thô 44,6 nghìn tỷ đồng; dự toán thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu 189,2 nghìn tỷ đồng; thu viện trợ 4 nghìn tỷ đồng.

Thứ hai, về chi NSNN: Dự toán chi là 1.633,3 nghìn tỷ đồng; trong đó: dự toán chi đầu tư phát triển 429,3 nghìn tỷ đồng; dự toán chi thường xuyên 999,46 nghìn tỷ đồng; dự toán chi trả nợ lãi 124,88 nghìn tỷ đồng; dự toán chi cải cách tiền lương, tinh giản biên chế 43,35 nghìn tỷ đồng. Tổng nhiệm vụ chi trả nợ gốc của NSNN năm 2019 gần 196,8 nghìn tỷ đồng, trong đó chi trả nợ gốc của ngân sách trung ương là 181,97 nghìn tỷ đồng; chi trả nợ gốc của ngân sách địa phương là 14,82 nghìn tỷ đồng.

Thứ ba, về bội chi NSNN: Dự toán bội chi mức 3,6%GDP, số tuyệt đối là 222 nghìn tỷ đồng; trong đó, bội chi ngân sách trung ương 209,5 nghìn tỷ đồng; bội chi ngân sách địa phương 12,5 nghìn tỷ đồng.

Thứ tư, về huy động vốn: Tổng nhiệm vụ huy động để bù đắp bội chi và chi trả nợ gốc là 425,25 nghìn tỷ đồng; trong đó huy động bù đắp bội chi 224,1 nghìn tỷ đồng, vay để trả nợ gốc 201,15 nghìn tỷ đồng.

Tập trung thực hiện có hiệu quả các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2019

Để hoàn thành tốt nhiệm vụ tài chính-NSNN năm 2019, Bộ Tài chính sẽ phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện có hiệu quả các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2019 theo nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, trong đó tập trung các nội dung sau:

Một là, điều hành chính sách tài khóa chặt chẽ, phối hợp đồng bộ, linh hoạt với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác, nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; quyết liệt công tác thu ngân sách; quản lý, điều hành chi ngân sách theo dự toán, chặt chẽ, tiết kiệm:

(1) Kiên quyết thực hiện các mục tiêu cơ cấu lại NSNN, bám sát chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra theo Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18 tháng 11 năm 2016 của Bộ Chính trị và chương trình hành động của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 07-NQ/TW.

Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách pháp luật về thuế nhằm cơ cấu lại nguồn thu, mở rộng cơ sở thuế, chống xói mòn nguồn thu, chống chuyển gia, tiếp tục tăng cường vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương; không ban hành chính sách mới làm giảm thu NSNN (trừ trường hợp cắt giảm thuế để thực hiện các cam kết quốc tế) trong trường hợp thực sự cần thiết nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tháo gỡ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước. Tập trung rà soát các nội dung liên quan đến ưu đãi đầu tư, quản lý đối với các khoản thu để lại cho đơn vị chi nhưng chưa đưa vào cân đối NSNN. Phấn đấu năm 2019 đạt tỷ lệ động viên vào NSNN ở mức 23,5%GDP, nâng tỷ trọng chi đầu tư phát triển lên khoảng 27-27,5%, giảm tỷ trọng chi thường xuyên xuống khoảng 63-63,5% trong tổng chi NSNN.

Các bộ, ngành, địa phương phối hợp tổ chức đánh giá tình hình thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020, chiến lược tài chính đến năm 2020, kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020, kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020; xây dựng kế hoạch tài chính - NSNN 3 năm giai đoạn 2020-2022; chuẩn bị xây dựng dự thảo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược tài chính giai đoạn 2021-2030, kế hoạch kinh tế - xã hội và kế hoạch tài chính 5 năm giai đoạn 2021-2025, bám sát các yêu cầu, mục tiêu, định hướng lớn đã đề ra; đẩy mạnh cơ cấu lại thu, chi ngân sách; tăng cường quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực NSNN gắn với huy động tối đa các nguồn lực ngoài nhà nước để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

(2) Phấn đấu tăng thu ngân sách khoảng 5% so với dự toán Quốc hội giao; đẩy mạnh chống thất thu, chuyển giá, gian lận thương mại, trốn thuế; đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra thuế; quyết liệt xử lý nợ đọng thuế, giảm tỷ lệ nợ đọng thuế xuống dưới 5% tổng thu NSNN; kiểm soát chặt chẽ việc hoàn thuế trong phạm vi dự toán được giao. Các bộ, ngành và địa phương triển khai giao nhiệm vụ thu ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và chính quyền cấp dưới, đảm bảo không thấp hơn so dự toán được giao. Trong điều hành, phối hợp chặt chẽ với cơ quan Thuế, Hải quan tăng cường công tác quản lý thu, nhất là các địa bàn trọng điểm, khu vực kinh tế phi chính thức, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản phát sinh; quản lý chặt chẽ giá tính thuế, mã số, xuất xứ đối với những mặt hàng có thuế suất cao, kim ngạch lớn. 

(3) Tổ chức điều hành chi NSNN năm 2019 theo dự toán được giao, đảm bảo chặt chẽ; đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và công khai, minh bạch việc sử dụng NSNN; siết chặt kỷ cương kỷ luật ngân sách.

Các bộ, cơ quan trung ương, địa phương thực hiện phân bổ ngay và hết dự toán chi NSNN năm 2019 được giao từ đầu năm, theo đúng thứ tự ưu tiên. Chủ động báo cáo cấp có thẩm quyền các khó khăn, vướng mắc (nếu có) để kịp thời xử lý. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đầu tư; nâng cao hiệu quả đầu tư, chống thất thoát, lãng phí, tham nhũng; không để phát sinh nợ đọng XDCB mới. Quản lý chặt chẽ, đúng quy định của Luật ngân sách nhà nước và hạn chế các khoản ứng trước dự toán NSNN năm sau và chi chuyển nguồn sang năm sau. Từng bộ, cơ quan trung ương và địa phương chủ động rà soát, sắp xếp các nhiệm vụ chi; triệt để tiết kiệm các khoản chi thường xuyên ngay từ khâu phân bổ dự toán và cả trong quá trình thực hiện; không bố trí kinh phí cho các nhiệm vụ chi chưa thực sự cấp thiết; hạn chế mua sắm ô tô công và trang thiết bị đắt tiền; hạn chế tối đa tổ chức các hội nghị, lễ hội, hội thảo, khánh tiết, công tác nước ngoài...; quản lý chặt chẽ việc sử dụng tài sản công; tạo chuyển biến quan trọng trong việc thực hiện khoán xe ô tô công đảm bảo hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm.

(4) Thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở từ 1,39 triệu lên 1,49 triệu đồng/tháng, điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hàng tháng theo quy định (đối tượng do ngân sách nhà nước đảm bảo) và trợ cấp ưu đãi người có công tăng bằng mức tăng lương cơ sở, thực hiện từ ngày 01/7/2019.

Các bộ, cơ quan trung ương và địa phương tiếp tục thực hiện các quy định về chính sách tạo nguồn cải cách tiền lương, kết hợp triệt để tiết kiệm chi gắn với sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, nâng cao mức độ tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập. Ngân sách trung ương bảo đảm kinh phí điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hàng tháng theo quy định (đối tượng do NSNN đảm bảo) và trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng; hỗ trợ nhu cầu điều chỉnh tiền lương tăng thêm cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương không cân đối được nguồn theo quy định của Chính phủ.

(5) Chủ động sử dụng dự phòng, dự trữ và các nguồn lực hợp pháp của địa phương để xử lý các nhiệm vụ chi phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh và các nhiệm vụ chi quan trọng, cấp bách, đột xuất phát sinh theo quy định. Trường hợp thu ngân sách không đạt dự toán thì phải chủ động sắp xếp, cắt, giảm, giãn các nhiệm vụ chi đã bố trí dự toán và sử dụng các nguồn tài chính hợp pháp theo quy định của Luật ngân sách nhà nước.

(6) Kiểm soát chặt chẽ bội chi NSNN (bao gồm bội chi ngân sách trung ương và bội chi của ngân sách địa phương) ở mức không quá 3,6%GDP. Trong điều hành phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi, để giảm bội chi NSNN.  Bộ Tài chính tăng cường phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước trong việc phát hành trái phiếu Chính phủ, điều hành ngân quỹ và cân đối ngoại tệ, đảm bảo nguồn đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ chi NSNN theo dự toán.

(7) Kiểm soát chặt chẽ, phấn đấu đến cuối năm 2019, dư nợ công trong phạm vi dự toán Quốc hội quyết định, khoảng 61,3%GDP.

Các bộ, ngành, địa phương phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính trong việc tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc vay, sử dụng vốn vay, trả nợ, nhất là đối với các hiệp định vay mới, vay nước ngoài, vay có bảo lãnh của Chính phủ. Thực hiện giải ngân vốn vay trong phạm vi kế hoạch và hạn mức được cấp thẩm quyền quyết định; không chuyển vốn vay về cho vay lại, bảo lãnh Chính phủ thành vốn cấp phát NSNN; bố trí trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn. Thực hiện đánh giá đầy đủ tác động lên nợ công và khả năng trả nợ trong trung hạn trước khi thực hiện các khoản vay mới. Tiếp tục thực hiện các giải pháp cơ cấu lại danh mục nợ công theo hướng an toàn, bền vững.

(8) Tăng cường quản lý các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, bảo đảm công khai, minh bạch. Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục rà soát, tổ chức lại và đổi mới cơ chế hoạt động của quỹ phù hợp với quy định của Luật ngân sách nhà nước.

Hai là, tập trung hoàn thiện thể chế; thúc đẩy mạnh mẽ cải cách hành chính, hiện đại hóa, cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, trọng tâm là lĩnh vực thuế, hải quan, KBNN, góp phần tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển DN, khuyến khích khởi nghiệp, phục vụ tốt hơn người dân và DN:

(9) Tiếp tục tổ chức thực hiện Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ về chương trình cải cách tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020; xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch nhiệm vụ năm 2019 về cải cách hành chính, cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để những cải cách thủ tục hành chính đi vào thực tế, tạo thuận lợi cho DN, người nộp thuế.

Tập trung triển khai các nhiệm vụ, giải pháp đề ra về cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển DN, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia theo Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2019, Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 và Chính phủ điện tử theo Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ, hướng tới thực hiện tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, tạo ra các dịch vụ nền tảng dùng cho cho toàn hệ thống từ trung ương đến địa phương.

Tiếp tục mở rộng ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa phương thức quản lý; mở rộng phạm vi hoàn thuế điện tử; mở rộng áp dụng hóa đơn điện tử, cơ bản hoàn thành trong năm 2019 ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn. Triển khai có hiệu quả hệ thống hải quan điện tử; đẩy mạnh phối hợp thu qua hệ thống ngân hàng. Rà soát, lựa chọn các thủ tục hành chính đáp ứng đầy đủ các tiêu chí theo quy định của pháp luật để tăng tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4.

Ba là, tiếp tục rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, hiệu lực, hiệu quả và đẩy mạnh đổi mới cơ chế tài chính đơn vị sự nghiệp công lập, giá dịch vụ công:

(10) Tích cực triển khai đổi mới sắp xếp lại tổ chức bộ máy, biên chế tinh gọn, cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Đẩy mạnh thực hiện sắp xếp lại tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo hướng thu gọn đầu mối, đảm bảo tinh gọn, liêm chính, thông suốt, hiệu quả. Tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và cải cách tiền lương. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với kiểm soát quyền lực và trách nhiệm giải trình.

(11) Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế hoạt động tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII); gắn với thúc đẩy lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN đã đề ra; hoàn thiện khung khổ pháp lý chuyển đơn vị sự nghiệp công thành công ty cổ phần.

Các bộ, cơ quan trung ương, địa phương tập trung hoàn thành việc xây dựng, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN thuộc lĩnh vực quản lý; quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật áp dụng trong các dịch vụ sự nghiệp công do nhà nước quản lý, làm cơ sở để giao quyền tự chủ cho đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực quản lý. Tiếp tục chuyển phương thức hỗ trợ trực tiếp của nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp công lập sang cơ chế đặt hàng; đồng thời, Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các đối tượng chính sách khi điều chỉnh tăng giá dịch vụ công.

Bốn là, tăng cường công tác quản lý giá, thị trường, nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô:

(12) Tiếp tục thực hiện quản lý, điều hành giá các mặt hàng quan trọng, Nhà nước còn định giá, mặt hàng bình ổn giá (xăng dầu, khí, điện, sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi, dịch vụ sự nghiệp công,...) theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2019, đảm bảo tốc độ tăng CPI dưới 4%. Các bộ, cơ quan trung ương, địa phương phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính để lựa chọn thời điểm, mức điều chỉnh, hạn chế tác động lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân, đảm bảo hài hòa lợi ích của người tiêu dùng, DN và Nhà nước.

(13) Làm tốt công tác theo dõi, phân tích, dự báo thông tin thị trường để kịp thời đề xuất các giải pháp điều hành vĩ mô, kiểm soát lạm phát theo quy định. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giá. Công khai thông tin về giá, điều hành giá để tạo sự đồng thuận trong xã hội.

Năm là, tiếp tục phát triển đồng bộ các loại hình thị trường tài chính, phát triển đa dạng các định chế tài chính, tổ chức dịch vụ kế toán, kiểm toán, thẩm định giá, xếp hạng tín nhiệm; tăng cường công tác quản lý giá, thị trường; tiến tới hình thành các trung tâm tài chính ở các khu đô thị lớn:

(14) Tiếp tục triển khai chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2020, lộ trình phát triển thị trường trái phiếu đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030; đưa thị trường chứng khoán trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn chủ đạo của nền kinh tế, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, hỗ trợ công tác cổ phần hóa và xử lý nợ xấu.

Đẩy mạnh phát triển thị trường phái sinh, trái phiếu DN và các sản phẩm mới. Tái cơ cấu hệ thống cơ sở nhà đầu tư, đẩy mạnh thu hút các nhà đầu tư dài hạn và nhà đầu tư nước ngoài; phát triển hệ thống quỹ đầu tư chứng khoán, quỹ hưu trí tự nguyện; đổi mới cơ chế đầu tư của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam trên thị trường.

(15) Phát triển và nâng cao chất lượng thị trường dịch vụ tài chính, các sản phẩm bảo hiểm, mở rộng các kênh phân phối bảo hiểm mới, đảm bảo an toàn, bền vững. Chuyển đổi các quy định về quản trị tài chính, quản trị DN theo mô hình quản trị trên cơ sở rủi ro. Tăng cường kiểm tra, giám sát các DN bảo hiểm; khuyến khích tăng vốn để mở rộng quy mô và nâng cao năng lực tài chính.

(16) Thực hiện có kết quả các mục tiêu, giải pháp về phát triển thị trường kế toán, kiểm toán đến năm 2020; tiếp tục xây dựng khuôn khổ pháp lý đảm bảo đầy đủ, đồng bộ, thống nhất phù hợp với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế.

Sáu là, đẩy mạnh tái cấu trúc, cổ phần hóa DNNN theo  Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XII):

(17) Đẩy mạnh thoái vốn, cổ phần hóa DN nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về quản lý tài chính của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, các quy định về phân phối lợi nhuận của DNNN, các quy định về quản lý, sử dụng tiền bán cổ phần, vốn góp của công ty mẹ tại các công ty con theo đúng quy định của Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại DN. Nâng cao chất lượng đầu tư, hiệu quả sản xuất, kinh doanh và công khai, minh bạch hoạt động của DN.

Bảy là, siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính, ngân sách trong xây dựng pháp luật, thực thi công vụ; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và công khai, minh bạch trong thu, chi NSNN, đầu tư XDCB, quản lý, sử dụng tài sản công, đất đai, tài nguyên, khoáng sản,...; thực hiện nghiêm các kết luận thanh tra, kiểm toán:

(18) Các bộ, cơ quan trung ương và địa phương thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính - NSNN, đảm bảo các khoản thu, chi ngân sách phải được dự toán; không giải ngân nguồn vốn vay ngoài nước vượt kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ giao; hạn chế tối đa việc chuyển nguồn ngân sách sang năm sau.

(19) Thực hiện nghiêm Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 21/12/2012 của Ban Bí thư và Chỉ thị số 30/CT-TTg ngày 26/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 8/11/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh, tăng cường kỷ luật trong việc chấp hành pháp luật về NSNN. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và công khai, minh bạch việc sử dụng NSNN, tài sản công, nhất là các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí.

(20) Chỉ đạo thực hiện nghiêm các kết luận thanh tra và việc xử lý sau thanh, kiểm tra, kiểm toán đối với những trường hợp vi phạm, gây lãng phí tiền, tài sản nhà nước, tài nguyên thiên nhiên. Hệ thống KBNN tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc chi tiêu, đảm bảo đúng chính sách, chế độ quy định, nhất là các khoản chi đầu tư XDCB, chi cho bộ máy quản lý nhà nước, sự nghiệp công, chi mua sắm ô tô, phương tiện, trang thiết bị đắt tiền, chi đi nghiên cứu, khảo sát ở nước ngoài.

Tám là, tích cực, chủ động hội nhập tài chính quốc tế:

(21) Tiếp tục điều chỉnh thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các cam kết thuế quan trong các hiệp định đã ký kết; triển khai kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP, ký kết và phê chuẩn Hiệp định EVFTA. Tích cực tham gia các hoạt động hợp tác tài chính khu vực ASEAN, ASEM, APEC... Thực hiện đồng bộ các giải pháp hội nhập và hợp tác tài chính quốc tế nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp từ nước ngoài, thu hút có hiệu quả nguồn vốn ODA và các nguồn vốn trung và dài hạn phục vụ phát triển sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế.

Chín là, điều hành ngân sách trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019 và xử lý tiếp các nhiệm vụ của năm 2018:

(22) Tập trung chỉ đạo, điều hành đảm bảo hoạt động sản xuất, kinh doanh trước và sau Tết diễn ra bình thường; theo dõi chặt chẽ tình hình biến động giá cả, thị trường; điều hành cung ứng và luân chuyển hàng hoá để đáp ứng nhu cầu; kiểm soát giá cả trong dịp Tết; kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định pháp luật về giá, gây biến động giá bất thường, nhất là giá các mặt hàng thiết yếu thuộc danh mục bình ổn giá, danh mục phải đăng ký giá, các mặt hàng quan trọng.

(23) Triển khai quyết liệt nhiệm vụ thu ngân sách; điều hành ngân sách trên địa bàn (bao gồm ngân sách cấp tỉnh, cấp huyện và xã) đảm bảo nguồn chi trả lương, chính sách an sinh xã hội và các nhiệm vụ chính trị quan trọng.

(24) Thực hiện xử lý chuyển nguồn NSNN năm 2018 sang năm 2019 theo đúng quy định của Luật NSNN, nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ và thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính. Các địa phương sử dụng nguồn tăng thu ngân sách địa phương năm 2019 theo đúng quy định; sau khi dành nguồn cải cách tiền lương theo quy định, được sử dụng để xử lý các nhu cầu cấp bách phát sinh, trong đó ưu tiên hoàn trả các khoản vay, nợ xây dựng cơ bản và chuyển nguồn năm sau để chủ động điều hành ngân sách.

Việc triển khai nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2019 diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội đất nước tiếp tục có những chuyển biến, song cũng còn nhiều khó khăn. Bộ Tài chính tin tưởng với sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương và với quyết tâm cao của cán bộ, công chức trong toàn Ngành, ngành Tài chính nhất định sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Chính phủ giao./.