Kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp

Theo Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 4/2019

Việc quản lý tốt doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh là yếu tố quan trọng góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh, đảm bảo sự an toàn cũng như khả năng đạt hiệu quả cao khi ban hành các quyết định kinh doanh đưa doanh nghiệp phát triển.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

 Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng, các chuẩn mực, mô hình kế toán, công tác kế toán nói chung và đặc điểm công tác kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh ở các nước trên thế giới nói riêng, bài viết rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm giúp các đối tượng sử dụng thông tin xác định được lợi ích kinh tế của mình, có các quyết định phù hợp với từng nhu cầu và mục đích riêng của từng đối tượng.

Các nhân tố ảnh hưởng đến kế toán doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến kế toán nói chung và kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh trong các doanh nghiệp (DN) nói riêng. Trong đó, có thể kể đến các nhân tố tiêu biểu sau:

- Các quy phạm pháp lý cần tuân thủ: Các DN tham gia vào hoạt động của nền kinh tế, dù kinh doanh trong bất kỳ lĩnh vực nào, thuộc bất kỳ ngành nghề nào cũng phải tuân theo các quy định pháp luật hiện hành. Các quy phạm pháp lý (Luật Kế toán, chế độ kế toán và các văn bản hướng dẫn cụ thể) có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của DN nói chung và công tác kế toán tại DN nói riêng. Do vậy, khi thực hiện công tác kế toán, các phần liên quan đến kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh đều phải tuân thủ các quy phạm này.

Khảo sát cho thấy, các chuẩn mực kế toán mang tính hướng dẫn nhiều hơn tuân thủ, tuy nhiên, nó cũng góp phần định hướng cho việc thực hiện hạch toán kế toán tại đơn vị. Đối với kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh, việc vận dụng chuẩn mực, chế độ kế toán phải cân nhắc mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra và lợi ích đạt được. Trên thực tế, áp dụng các chuẩn mực ban hành, có một số nội dung còn mới mẻ với quá nhiều khái niệm, thuật ngữ. Kế toán viên chỉ vận dụng trên cơ sở các thông tư hướng dẫn chi tiết trong công tác kế toán. Do vậy, đây là một trong những rào cản ảnh hưởng đến vận dụng các chuẩn mực, chế độ kế toán. Việc áp dụng chuẩn mực, chế độ kế toán còn nhiều khó khăn, nhiều khi gây ảnh hưởng đến tính chính xác của thông tin kế toán cung cấp về các chỉ tiêu tài chính quan trọng đối với DN như: thông tin về doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh…

Chính sách thuế cũng là một nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến công tác kế toán DN nói chung và kế toán doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh nói riêng. Ngoài ra, hệ thống pháp luật có liên quan đến kế toán trong DN như Luật Doanh nghiệp, Luật Kế toán… đều có những ảnh hưởng nhất định đến công tác kế toán trong các DN.

- Đặc điểm của từng ngành nghề kinh doanh: Mỗi ngành, nghề kinh doanh đều có những điểm đặc trưng riêng biệt và có những ảnh hưởng nhất định tới công tác kế toán. Cùng tuân thủ những quy định chung của pháp luật, tuy nhiên, với đặc điểm sản xuất kinh doanh khác nhau, các DN sẽ tự lựa chọn các phương pháp kế toán khác nhau cho phù hợp với đặc thù của DN mình. Ví dụ kế toán có hai phương pháp để theo dõi hàng tồn kho là phương pháp kê khai thường xuyên và kiểm kê định kỳ. Với những DN có số lượng, chủng loại hàng tồn kho vừa phải, có thể áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ để giảm thiểu thời gian cũng như chi phí cho công tác theo dõi hàng tồn kho. Tuy nhiên, với những DN có số lượng, chủng loại hàng hóa lớn, cần theo dõi chi tiết từng loại hàng hóa để thông tin cung cấp kịp thời và đảm bảo độ chính xác cao, tránh những sai sót có thể xảy ra… nên áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên.

- Các nhân tố khác: Việc lựa chọn phương pháp kế toán còn phụ thuộc rất nhiều vào những nhân tố khác như trình độ của kế toán viên cũng như yêu cầu quản lý của ban giám đốc hay điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật… Tất cả các yếu tố này đều tác động không nhỏ tới công tác kế toán. Ví dụ, trong thời kỳ kinh tế lạm phát, để giảm thiểu rủi ro tài chính cho DN, các nhà quản lý yêu cầu kế toán phải lựa chọn các phương pháp kế toán phù hợp với chuẩn mực, chế độ kế toán, đồng thời phải phù hợp với đặc điểm kinh doanh của DN. Khi đó, kế toán viên phải cân nhắc lựa chọn phương pháp xuất kho, phương pháp khấu hao tài sản cố định phù hợp để có thể đáp ứng yêu cầu và phù hợp với bối cảnh.

Như vậy, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh. Mỗi DN cần dựa trên điều kiện cụ thể để áp dụng những phương pháp kế toán thích hợp để đạt được mục tiêu đã đặt ra của DN.

Kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh theo chuẩn mực kế toán quốc tế

Kế toán doanh thu theo chuẩn mực kế toán quốc tế

Theo chuẩn mực kế toán quốc tế số 18 – Doanh thu (IAS 18): “Doanh thu là luồng thu gộp các lợi ích kinh tế trong kỳ, phát sinh trong quá trình hoạt động thông thường, làm tăng nguồn vốn chủ sở hữu, chứ không phải phần đóng góp của những người tham gia góp vốn cổ phần. Doanh thu loại trừ những khoản thu cho bên thứ ba ví dụ như thuế giá trị gia tăng”. Doanh thu được phân biệt với các loại thu nhập khác (Thu nhập bao gồm cả doanh thu và các khoản lợi nhuận thu được).

IAS 18 quy định doanh thu cần được tính toán theo giá trị thực tế của khoản tiền nhận được. Doanh thu bán hàng được ghi nhận khi những rủi ro và lợi ích quan trọng gắn liền với quyền sở hữu hàng hóa được chuyển sang cho người mua; DN không tiếp tục tham gia quản lý quyền sở hữu cũng như không kiểm soát hàng bán ra; Giá trị doanh thu có thể được tính toán một cách đáng tin cậy; DN có khả năng là sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng; Chi phí liên quan đến giao dịch được tính toán một cách đáng tin cậy.

Nội dung của chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam về doanh thu và thu nhập tuy có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt trong việc ghi nhận doanh thu, cụ thể như: Theo IAS 18 – Doanh thu không đề cập đến nội dung thu nhập khác, còn theo Chuẩn mực Kế toán Việt Nam VAS 14 về doanh thu và thu nhập khác thì có quy định về thu nhập khác với từng khoản mục cụ thể.

Kế toán chi phí theo chuẩn mực kế toán quốc tế

Theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 1 thì chi phí là khoản làm giảm lợi ích kinh tế dưới dạng luồng chi hoặc giảm giá trị tài sản, hoặc phát sinh nợ dẫn tới giảm vốn chủ sở hữu (không phải các khoản giảm do phân chia cho các chủ sở hữu). Có thể thấy, một số điểm khác biệt trong ghi nhận chi phí giữa Chuẩn mực Kế toán Việt Nam và quốc tế như sau:

- Theo IAS 38, chi phí đào tạo, nghiên cứu, quảng cáo, chuẩn bị, tái phân bổ được ghi nhận là chi phí trong kỳ. Còn theo Chuẩn mực Kế toán Việt Nam VAS 04 thì các loại chi phí này được coi là chi phí trả trước và được khấu hao trong thời gian 3 năm, nếu chi phí trên đem lại những lợi ích kinh tế tương lai.

- Theo IAS 21 - chi phí đi vay, có thể bao gồm chênh lệch tỷ giá phát sinh từ các khoản vay bằng ngoại tệ trong trường hợp các chênh lệch này được coi như là một điều chỉnh chi phí lãi vay. Phần thặng dư giữa giá trị ghi sổ của tài sản dở dang và giá trị có thể thu hồi được khi giá trị hoặc chi phí ước tính sau cùng của tài sản lớn hơn giá trị có thể thu hồi của giá trị thuần có thể thực hiện được, giá trị còn lại được ghi giảm (xóa sổ) theo các yêu cầu của IAS khác. Tuy nhiên, chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS 16 – chi phí đi vay thì không đề cập đề vấn đề này.

- Theo IAS 16, “máy móc, thiết bị, nhà xưởng”, chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định được hạch toán vào chi phí. Còn theo chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS 03 “tài sản cố định hữu hình” thì chi phí sữa chữa lớn tài sản cố định sẽ được hạch toán vào tài khoản trả trước dài hạn và phân bổ trong vài năm.

Kế toán kết quả kinh doanh theo chuẩn mực kế toán quốc tế

Theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 08– “Lãi lỗ thuần trong kỳ, các lỗi cơ bản và thay đổi chính sách kế toán”, kết quả hoạt động thông thường là kết quả những DN được tiến hành với tư cách là một phần hoạt động kinh doanh của mình và cả những hoạt động liên quan mà DN tham gia. Những kết quả này được tính vào lợi nhuận trước thuế. Các khoản bất thường là các khoản thu nhập hoặc chi phí phát sinh từ các sự kiện hoặc giao dịch khác biệt rõ ràng với những hoạt động thông thường của DN và vì vậy các hoạt động này không được coi là phát sinh thường xuyên.

Nhìn chung, các nội dung về xác định kết quả kinh doanh tại IAS 08 có nội dung mang tính chất hướng dẫn nghiệp vụ và mang tính tổng quát, còn Chuẩn mực Kế toán Việt Nam VAS 29 (Thay đổi chính sách kế toán, ước tính kế toán và các sai sót), thì được quy định rõ ràng và chi tiết cho từng loại hoạt động kinh doanh của DN, đó là kết quả từ bán hàng và cung cấp dịch vụ, kết quả hoạt động kinh doanh và kết quả hoạt động khác.

Hoạt động kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại Mỹ và Pháp

Ở Mỹ

Hệ thống kế toán của Mỹ quy định về kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh về cơ bản là phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc ghi nhận doanh thu, chi phí trong Chuẩn mực Kế toán ở Mỹ đều quy định các điều kiện giống chuẩn mực kế toán quốc tế. Chuẩn mực Kế toán Mỹ còn cụ thể hóa việc ghi nhận doanh thu, chi phí gắn với các ngành đặc thù như: Công nghệ thông tin, dịch vụ, giao dịch. Theo Chuẩn mực Kế toán Mỹ, doanh thu có thể được ghi nhận một trong ba thời điểm: ghi nhận doanh thu trước thời điểm giao hàng, ghi nhận doanh thu tại thời điểm giao hàng, ghi nhận doanh thu sau thời điểm giao hàng. Các khoản giảm trừ doanh thu bao gồm: giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, chiết khấu thanh toán, còn chiết khấu thương mại không phải là khoản giảm trừ doanh thu.

Kế toán Mỹ cũng có nhiều cách phân loại chi phí, nhưng tựu chung có 2 cách phổ biến nhất, đó là phân loại chi phí theo giá phí (chi phí cố định, chi phí biến đổi) và phân loại chi phí theo mối quan hệ của chi phí với các khoản mục trên báo cáo tài chính (chi phí sản phẩm, chi phí thời kỳ). Hệ thống tài khoản phản ánh doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh là tài khoản loại 4, 5, 6. Để xác định kết quả kinh doanh, hệ thống kế toán Mỹ thực hiện khóa sổ các tài khoản doanh thu, chi phí. Điều này cũng tương đối với các quy định về kế toán ở Việt Nam.

Báo cáo tài chính Mỹ luôn tuân thủ các nguyên tắc, quy định riêng của Mỹ, mặc dù đã có xu hướng hội tụ kế toán quốc tế. Trong việc trình bày doanh thu, chi phí trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, chuẩn mực kế toán Mỹ bắt buộc các DN lập báo cáo kết quả kinh doanh theo chức năng của chi phí.

Ở Pháp

Hệ thống kế toán ở Pháp quy định về kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc ghi nhận doanh thu, chi phí trong chuẩn mực kế toán Pháp đều quy định các điều kiện giống chuẩn mực kế toán quốc tế. Kế toán Pháp chỉ chấp nhận thời điểm khi việc bán hàng đó thực sự xảy ra và kế toán đã có kết quả của nghiệp vụ để ghi nhận vào sổ kế toán. Các khoản giảm trừ doanh thu bao gồm: Giảm giá, hồi khấu và chiết khấu thanh toán.

Chi phí hoạt động kinh doanh thường được phân thành chi phí cố định và chi phí biến đổi. Đặc biệt, hệ thống kế toán Pháp còn được phân thành chi phí được phân bổ, chi phí không được phân bổ và chi phí bổ sung cho một số ngành đặc thù.

Tại Pháp, hệ thống tài khoản thống nhất cho các DN, bao gồm từ loại 1 đến loại 8 với 2 chữ số ký hiệu. Tài khoản theo dõi tập hợp doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh là tài khoản loại 6, loại 7.

Trong việc trình bày doanh thu, chi phí trên báo cáo kết quả kinh doanh, chuẩn mực kế toán Pháp cho phép trình bày trên cơ sở phân loại chi phí theo chức năng hoặc theo bản chất kinh tế của chi phí. Theo quy định tại Pháp, kế toán chỉ sử dụng một hình thức sổ duy nhất là hình thức Nhật ký chung. Áp dụng hình thức này DN sẽ khai thác được những ưu điểm của hình thức này là đơn giản, dễ áp dụng, dễ kiểm tra đối chiếu.

Bài học đối với Việt Nam

Thông qua việc nghiên cứu các chuẩn mực, mô hình kế toán, công tác kế toán nói chung và đặc điểm công tác kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh ở các nước trên thế giới nói riêng sẽ giúp các DN Việt Nam học hỏi, tiếp thu được những bài học quý báu trong công tác tổ chức hệ thống kế toán tại Việt Nam như sau:

Thứ nhất, về các chính sách, chế độ và chuẩn mực kế toán: Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã xây dựng đầy đủ các chuẩn mực kế toán theo thông lệ quốc tế và vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế một cách linh hoạt. Các chuẩn mực kế toán này mang tính chất hướng dẫn thực hiện, tổ chức công tác kế toán của DN ở các nước cũng chỉ bị chi phối chủ yếu bởi các chuẩn mực kế toán và các nguyên tắc được thừa nhận. Trong khi đó, trên thực tế, các chế độ và chuẩn mực kế toán Việt Nam vẫn mang tính chất khuôn mẫu, đang từng bước tiệm cận gần với thông lệ và chuẩn mực kế toán quốc tế cũng như thực tiễn tại Việt Nam. Đồng thời, tổ chức công tác kế toán trong các DN tại Việt Nam bị chi phối bởi nhiều hệ thống chính sách kế toán khác nhau như: Chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán, Luật Kế toán hay các thông tư, nghị định...

Trong bối cảnh đó, cần xây dựng đầy đủ hệ thống chế độ kế toán và chuẩn mực kế toán phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn tại Việt Nam. Đồng thời, tiếp tục vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế và thực hiện thống nhất toàn diện giữa các hệ thống chính sách kế toán.

Thông tư số 200/2014/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán DN được Bộ Tài chính ban hành thay thế Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC vừa qua đã kế thừa kinh nghiệm quốc tế về tổ chức công tác kế toán của Việt Nam. Chế độ kế toán Việt Nam đã mang tính hướng dẫn hơn, xây dựng kế toán linh hoạt, cởi mở trao cho DN quyền quyết định nhiều hơn. Đồng thời, chế độ kế toán mới đã vận dụng thêm một số nội dung của chuẩn mực kế toán quốc tế như: Nội dung hướng dẫn báo cáo tài chính quốc tế (IFRIC 13), các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS 15). Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, vẫn cần tiếp tục có những thay đổi, điều chỉnh chính sách kế toán dựa trên những bài học kinh nghiệm của các nước để tạo điều kiện cho công tác kế toán của DN ở Việt Nam thực hiện được hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế hơn.

Thứ hai, về tổ chức công tác kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh trong DN: Hiện tại, hầu hết các DN ở nước ta đều tổ chức mô hình kế toán doanh thu, chi phí với mục tiêu chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đề kế toán tài chính mà chưa giải quyết triệt để mục tiêu quản trị DN.

Vì vậy, các DN Việt Nam có thể học hỏi áp dụng mô hình kế toán kết hợp giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị của Mỹ vào mô hình kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại DN mình. Khi đó, kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh sẽ cung cấp được những thông tin đầy đủ, chi tiết dưới cả hai góc độ kế toán tài chính và kế toán quản trị, từ đó giúp các nhà quản trị có được cái nhìn tổng quát, đánh giá khách quan, giúp cho việc ra các quyết định của các nhà quản trị sẽ chính xác, hiệu quả hơn. Đồng thời, việc xây dựng mô hình kế toán doanh thu, chi phí như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí luân chuyển chứng từ, tiết kiệm được chi phí nhân sự khi không phải tổ chức riêng hai bộ máy kế toán tài chính và kế toán quản trị độc lập. Mô hình này cũng phù hợp với trình độ kế toán của các DN hiện nay và đảm bảo cho việc kiểm tra, kiểm soát được dễ dàng.

Tóm lại, việc chủ động nghiên cứu kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh ở các nước Mỹ và Pháp cũng như các nước khác trên thế giới có ý nghĩa vô cùng to lớn. Qua đó, Việt Nam có thể học hỏi và rút ra những kinh nghiệm quý về mô hình kế toán, cách nhìn nhận và hạch toán kế toán nói chung và kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh nói riêng của các nước trên thế giới, từ đó dần thay đổi và tiếp cận để hòa nhập với nền kinh tế chung trên toàn cầu. 

Tài liệu tham khảo:

  1. Bộ Tài chính (2006), 26 chuẩn mực kế toán Việt Nam, NXB Tài chính;
  2. Bộ Tài chính (2015), Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 về hướng dẫn chế độ kế toán;
  3. Đỗ Thị Hồng Hạnh (2015), “Hoàn thiện kế toán chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh trong các DN sản xuất thép thuộc Tổng Công ty Thép Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân;
  4. Đinh Thị Tuyết (2015), “Kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại các công ty cổ phần xây lắp trên địa bàn Hà Nội”, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Đại học Thương mại, Hà Nội.