73.000 tỷ đồng nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước

Theo vnexpress.net

(Tài chính) Trong báo cáo công bố sáng nay, Ủy ban Kinh tế nhận định số nợ xấu này rất khó giải quyết, nhất là khi kinh tế trong giai đoạn suy giảm.

73.000 tỷ đồng nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp Nhà nước nợ xấu lớn nhưng khó giải quyết. Nguồn: internet
Báo cáo "Thách thức còn ở phía trước" vừa được Ủy ban Kinh tế của Quốc hội công bố dành nhiều sự quan tâm đến khu vực DN. Trong đó, các tác giả cho rằng yếu kém của DN Nhà nước (DNNN) đã gây tác động tiêu cực lên bức tranh nợ xấu - vốn đã rất ảm đạm do suy giảm kinh tế.

Trích dẫn số liệu của Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia, báo cáo cho biết, đến cuối 2012, nợ xấu của DNNN (chưa tính Vinashin) chiếm 11,8% tổng nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng và 5% dư nợ đối với DNNN. Với số liệu trên, nhóm chuyên gia ước tính nợ xấu của DNNN khoảng 24.950 tỷ đồng.

Con số này chưa bao gồm nợ xấu của Vinashin tại các tổ chức tín dụng trong nước (ước tính khoảng 19.800 tỷ đồng năm 2010) và nợ đã được cơ cấu lại theo Quyết định 780 của Ngân hàng Nhà nước (ước chiếm khoảng 10% tổng dư nợ năm 2012).

"Theo tính toán này thì nợ xấu và nợ cơ cấu lại của khu vực DNNN năm 2012, bao gồm các khoản của Vinashin sẽ vào khoảng 44.750 tỷ đồng. Nếu như phần khu vực DNNN còn lại (không kể Vinashin) chiếm 15% số nợ đã được cơ cấu lại (ước khoảng 28.300 tỷ đồng) thì tổng số nợ xấu và nợ cơ cấu lại của khu vực DNNN sẽ khoảng hơn 73.000 tỷ đồng", các chuyên gia tính toán.

Các khoản nợ xấu nêu trên cũng được đánh giá là rất khó giải quyết. "DN tư nhân có thể dễ dàng bán tài sản hoặc nhượng cổ phần cho các DN khác để có tiền trả nợ ngân hàng. Nhưng DNNN rất khó có thể bán theo giá thị trường trong giai đoạn kinh tế suy giảm. Vì vậy, các khoản nợ mà các DNNN vay thường phải trông đợi vào sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước dưới các hình thức xóa nợ, khoanh nợ, chuyển nợ, bổ sung vốn...", báo cáo chỉ ra.

Trong bối cảnh tỷ lệ nợ công của Việt Nam ở mức cao 54,9% GDP cuối năm 2011, và thâm hụt ngân sách trong năm 2012 tăng trở lại mức 4,8% GDP từ mức 4,4% GDP năm 2011, thì khả năng hỗ trợ của ngân sách để giảm nợ cho khu vực Nhà nước sẽ vô cùng khó khăn. "Điều này hàm ý rằng việc giải quyết nợ xấu của khu vực DNNN sẽ thực sự là một bài toán nan giải đối với Việt Nam", nhóm tác giả nhận định.

Báo cáo còn chỉ ra DNNN hoạt động sa sút là một trong những nguyên nhân chính tạo nên suy thoái kinh tế kéo dài.

Cụ thể, hiệu quả sử dụng tài sản kém hơn hẳn so với các khu vực DN khác trong khi đang nắm giữ nhiều nguồn lực hơn. Ví dụ năm 2009, DNNN chiếm 37,2% nguồn vốn kinh doanh, 44,8% giá trị tài sản cố định và đầu tư dài hạn, nhưng chỉ tạo ra 25% doanh thu, 37% lợi nhuận trước thuế, 20% giá trị sản xuất công nghiệp; chiếm tỷ trọng nhỏ trong lĩnh vực thương mại nội địa, nông thủy sản; đạt giá trị xuất khẩu cao song chủ yếu nhờ xuất khẩu nguyên liệu thô như dầu khí, than, quặng…

Hiệu quả đầu tư của DNNN cũng thấp hơn các loại hình DN khác. Báo cáo dẫn số liệu của Tổng cục Thống kê cho hay, khu vực này phải sử dụng tới 2,2 đồng vốn để tạo ra một đồng doanh thu năm 2009, trong khi DN ngoài quốc doanh chỉ cần 1,2 đồng vốn và DN vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 1,3 đồng. Điều này đã kéo mức sử dụng vốn trung bình của toàn bộ DN Việt Nam xuống 1,5 đồng. 

Nguyên nhân chính khiến khu vực DNNN kém hiệu quả là quy mô của khu vực này quá lớn trong khi mô hình quản lý nhiều đầu mối và kém minh bạch.

10 năm gần đây, quy mô vốn trung bình của nhóm này đã tăng gấp 10 lần. Đến cuối năm 2011, quy mô vốn bình quân của DNNN gấp 4,5 lần các DN FDI và 61 lần DN ngoài quốc doanh. "Khi khu vực DNNN quá lớn, đặc biệt là trong một số lĩnh vực đòi hỏi nhiều vốn đầu tư và mức độ rủi ro cao, sẽ không có DN tư nhân nào dám tham gia. Hơn nữa, Chính phủ sẽ khó có đủ người chuyên trách tài giỏi và tận tâm để kiểm soát hết hành vi của những nhà quản lý", báo cáo nêu lên.

Việc thiếu giám sát dẫn đến hệ quả nhiều DNNN quy mô lớn như Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) và Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) lún sâu vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, thậm chí bên bờ phá sản mà không có cảnh báo sớm. Bên cạnh đó, cơ chế minh bạch hoá thông tin yếu kém cũng làm giảm hiệu quả của cơ chế giám sát từ bên ngoài, khiến các cơ quan quản lý, nhà đầu tư tiềm năng và công luận khó đưa ra đánh giá đúng và khách quan về thực trạng hiệu quả hoạt động của DN.

Trước những vấn đề trên, Ủy ban Kinh tế cho rằng cần những chính sách mạnh mẽ để giảm số lượng và cả quy mô của khu vực DNNN. "Cần mạnh dạn đưa ra lộ trình giảm quy mô khu vực này, sao cho đóng góp vào GDP của khu vực DNNN giảm xuống còn 15-17% vào năm 2015 và xuống dưới 10% vào năm 2020", tác giả báo cáo nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, cũng nên xây dựng một số công ty có mô hình như Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) để quản lý từng lĩnh vực của DN. Chẳng hạn SCIC1 chuyên về các công ty trong lĩnh vực tài nguyên, SCIC2 chuyên về các dịch vụ cơ bản, SCIC3 chuyên về các công ty công nghệ cao, SCIC4 chuyên về các công ty trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, SCIC 5 chuyên về phát triển cơ sở hạ tầng và nhà ở..., báo cáo khuyến nghị.

Các SCIC này sẽ đặt dưới sự quản lý tạm thời của một Uỷ ban cải cách DNNN. Khi số lượng DN trong danh mục đầu tư của các công ty quản lý vốn này giảm, Nhà nước có thể sáp nhập các công ty này lại với nhau thành một công ty quản lý vốn duy nhất và giải tán Uỷ ban cải cách.

Ngoài ra, cần tiến hành cổ phần hóa mạnh mẽ các DNNN trên mọi lĩnh vực, phân tách đội ngũ quản trị thành hai nhóm là quản giám và đại diện quản lý. Nhóm đầu có trách nhiệm thu vén bảo toàn vốn cho Nhà nước, nhóm sau sẽ hành xử như những nhà quản lý theo các tiêu chí thị trường.

"Đây là điều kiện cần để tái cấu trúc khu vực DN thành công, góp phần đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng bền vững trong tương lai", các chuyên gia khẳng định.