Truyền thông và marketing cho các hợp tác xã trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 5/2019

Bài viết nghiên cứu về truyền thông, marketing cho các hợp tác xã trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

Các hợp tác xã đã nhận thức được vai trò của marketing. Nguồn: internet
Các hợp tác xã đã nhận thức được vai trò của marketing. Nguồn: internet

Kết quả cho thấy, hiện tại các hợp tác xã đã nhận thức được vai trò của marketing, truyền thông đối với hoạt động kinh doanh của hợp tác xã nhưng chưa tận dụng được những lợi thế từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 với truyền thông, marketing và hoạt động kinh doanh của hợp tác xã. Khảo sát thực trạng hoạt động truyền thông và marketing của các hợp tác xã hiện nay, bài viết đề xuất giải pháp tận dụng truyền thông và marketing vào phát triển các hợp tác xã.

Cách mạng Công nghiệp (CMCN) 4.0 với những công nghệ mới như công nghệ tự động hóa (AI – trí tuệ nhân tạo) sẽ thay thế và làm mất đi một phần lớn những công việc lao động đơn giản; công nghệ IoT (internet kết nối vạn vật) sẽ khiến cho cách thức con người giao tiếp và kết nối với nhau trong cuộc sống và trong sản xuất – kinh doanh thay đổi căn bản... Không nằm ngoài vòng xoáy đó, các hợp tác xã (HTX) cũng phải tự đổi mới mình để hoàn thiện, bắt kịp xu hướng, tận dụng những mặt tích cực mà cuộc Cách mạng này đem lại.

Thực trạng hoạt động truyền thông và marketing của các hợp tác xã hiện nay

Đối với lĩnh vực truyền thông và marketing, CMCN 4.0 được đánh giá là đem lại nhiều tích cực hơn so với tiêu cực. Cuộc Cách mạng này giúp tạo ra được những phương thức tiếp cận khách hàng mục tiêu hơn, hiệu quả hơn và đặc biệt là đo lường được sự cảm nhận, sự tương tác của khách hàng đối với doanh nghiệp. Trước đây, truyền thông và marketing chỉ dừng lại ở những phương thức cơ bản như: Quảng cáo truyền hình, quảng cáo biển bảng, quảng cáo tờ rơi, tổ chức sự kiện ra mắt… Ngày nay, cuộc CMCN 4.0 đem lại cho ngành truyền thông và marketing những phương thức mới như: Mạng xã hội, diễn đàn, marketing nội dung hay những bài viết truyền thông đặc sắc.

Tại Việt Nam, với các doanh nghiệp, việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực marketing là điều tất yếu, đã được tiến hành trong nhiều năm và mang lại hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên, với các hợp tác xã thì việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực marketing vẫn còn sơ khai. Có thể điểm qua một vài hình thức truyền thông mà HTX đã và đang ứng dụng dựa trên nền tảng CMCN 4.0 gồm:

- Mạng xã hội: Facebook là mạng xã hội lớn nhất hiện nay và đem lại lợi nhuận kinh doanh không nhỏ cho các tổ chức kinh tế. Cụ thể, theo khảo sát mới công bố của Hiệp hội Thương mại điện tử (TMĐT) Việt Nam, 32% doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong tổng số hơn 4.100 doanh nghiệp, tổ chức kinh tế được khảo sát cho biết, họ đang tiến hành kinh doanh trên mạng xã hội năm 2017. Điều này cho thấy, việc sử dụng mạng xã hội là công cụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế ngày càng trở nên hữu dụng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mới chỉ có các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh qua Facebook, còn các HTX dường như chưa tận dụng được công cụ này. Một lệnh tìm kiếm “Hợp tác xã” hoặc “HTX” trên mạng xã hội ra khá nhiều trang web của các HTX nhưng số trang hoạt động thường xuyên và có nhiều đối tượng theo dõi là rất ít. Điều này cho thấy, các HTX vẫn chưa bắt kịp với xu hướng hiện đại để thay đổi chính mình.

- Các website thương mại điện tử của các HTX: Theo dự báo của giới phân tích, thương mại điện tử tiếp tục là xu thế chủ đạo trên thế giới, chiếm khoảng 25% tổng mức bán lẻ toàn cầu. Năm 2017, Việt Nam có 53,86 triệu người sử dụng internet, con số này sẽ tăng lên 59,48 triệu người vào năm 2022 (nguồn statista.com). Dự kiến doanh thu bán lẻ từ thị trường thương mại điện tử Việt Nam cũng tăng 20% mỗi năm và sẽ đạt 10 tỷ USD vào năm 2020. Đến năm 2020, cũng có khoảng 30% dân số tham gia mua sắm online, đạt 350 USD/người.

Thống kê cho thấy, Việt Nam hiện có khoảng 10 triệu thành viên tham gia gần 20.000 HTX đang hoạt động; trong đó có 11.756 hợp tác xã nông nghiệp, 1.661 hợp tác xã thương mại - dịch vụ, 828 HTX xây dựng, 1.906 HTX công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; 1.163 HTX vận tải, 1.176 quỹ tín dụng nhân dân, 997 hợp tác xã dịch vụ môi trường và lĩnh vực khác. Các hợp tác xã này đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng GDP, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, trong số này chưa đến 10% số hợp tác xã có website giới thiệu quảng bá sản phẩm, dịch vụ. Ngoài ra, việc sử dụng các ứng dụng thương mại dịch vụ phục vụ hoạt động mua bán sản phẩm rất hạn chế, chỉ chiếm khoảng 30%. Riêng với khu vực các HTX nông nghiệp, chỉ có khoảng 14% có trang bị hệ thống máy tính chủ yếu để quản lý kế toán và lưu trữ dữ liệu. Còn lại hầu hết các HTX vẫn chưa có website và chỉ có duy nhất bộ máy vi tính nhưng không kết nối internet.

Bên cạnh đó, hầu hết các HTX tại Việt Nam đã bỏ qua những hình thức truyền thông hiệu quả như: Từ khóa tìm kiếm, marketing nội dung và truyền thông. Điều này cho thấy, các HTX dường như vẫn đang hờ hững với những tích cực mà CMCN 4.0 đem lại. Thực tế này xuất phát từ các nguyên nhân như sau:

- Dù công nghệ có phát triển đến mức độ nào đi chăng nữa thì vẫn sẽ không thể nào thay thế hoàn toàn vai trò con người trong hoạt động của HTX, vì bản chất của HTX là "tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã" (Luật hợp tác xã năm 2012).

Yếu tố con người trong HTX đóng vai trò quan trọng nhưng dường như con người trong HTX chưa nhận thức đầy đủ được việc áp dụng những tiến bộ mà CMCN 4.0 đem lại. Hầu hết các ứng dụng 4.0 đang đòi hỏi con người phải thường xuyên cập nhật, nghiên cứu để đem lại hiệu quả một cách tối ưu. Trong khi đó, các HTX viên vẫn có phong cách làm việc truyền thống; việc tiếp nhận công nghệ mới khiến họ phải bỏ nhiều thời gian tìm hiểu, khám phá và nghiên cứu.

- Không phải thành viên HTX nào cũng sẽ chịu tác động như nhau. Những thành viên có khả năng, có mức độ hội nhập kinh tế quốc tế cao, với những sản phẩm được sản xuất theo đơn hàng lớn quy mô công nghiệp để xuất khẩu có thể sẽ chịu tác động nhiều hơn và phải năng động hơn trong việc tiếp thu công nghệ mới trong hoạt động của mình. Tuy nhiên, cũng có những thành viên yếu kém trong các hoạt động hội nhập. Điều này sẽ tạo nên 1 HTX phức hợp.

- Quy mô các HTX còn nhỏ lẻ, manh mún; mô hình sản xuất chủ yếu theo kiểu hộ gia đình; thiếu khả năng liên kết, thiếu những tập đoàn kinh tế lớn đầu tư để có thể dẫn đầu và tạo chuỗi cung ứng hoàn chỉnh, tiếp cận trực tiếp các thị trường xuất khẩu.

- Hầu hết các HTX đều chưa có quy hoạch sản phẩm – thị trường mục tiêu rõ ràng để có chiến lược marketing phù hợp cho từng thị trường mục tiêu.

- Năng lực ứng dụng công nghệ là rất yếu do thiếu các nguồn lực tài chính, con người, thông tin… cần thiết để ứng dụng công nghệ.

- Còn thiếu cơ sở hạ tầng để áp dụng những tiến bộ của công nghệ. Các HTX vẫn chỉ tận dụng những cơ sở hạ tầng cũ, hoặc đã nâng cấp những chưa tận dụng việc đổi mới cở sở hạ tầng mới.

Giải pháp tận dụng truyền thông và marketing phát triển hợp tác xã

Để vượt qua những khó khăn, thách thức và tận dụng tốt nhất những cơ hội mà cuộc CMCN 4.0 mang lại, mỗi HTX Việt Nam cần có cách thức tiếp cận riêng phù hợp với thị trường mục tiêu của mình. Từ thực tiễn nghiên cứu nhóm tác giả, tác giả đề xuất một số nhóm giải pháp cho 2 nhóm HTX được phân loại dựa trên quy mô thị trường và phương thức sản xuất.

Các giải pháp chung

Một là, kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, truyền thông cho HTX cần được trang bị theo kịp xu thế phát triển của công nghệ 4.0, đồng thời phù hợp với trình độ tiếp cận và sử dụng các thiết bị thông minh của công chúng. 

Hai là, đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực ngành truyền thông nhưng lại hoạt động trong lĩnh vực kinh tế tập thể đáp ứng yêu cầu của khoa học công nghệ 4.0, bao gồm đồng bộ hóa đội ngũ nhân viên và nhà quản lý đủ bản lĩnh, nhân cách và năng lực tương ứng.

Ba là, nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp an ninh truyền thông hiệu quả, đặc biệt là vấn đề phòng, chống tội phạm công nghệ cao và an ninh mạng.

Giải pháp cho nhóm hợp tác xã có thị trường xuất khẩu, quy mô sản xuất công nghiệp lớn

Thứ nhất, những HTX thường xuyên có các đơn hàng xuất khẩu lớn cần nghiên cứu khả năng ứng dụng công nghệ tự động hóa để gia tăng mức độ đồng nhất của sản phẩm và rút ngắn thời gian sản xuất, tiết giảm chi phí sản xuất... Các HTX cần đẩy mạnh hoạt động truyền thông về thương hiệu chính HTX của mình nhằm xây dựng thương hiệu mạnh.

Thứ hai, năng lực liên kết giữa các HTX là rất quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh. Các HTX cần liên kết với nhau trong một mạng lưới các nhà cung ứng, bao gồm từ khâu cung ứng đầu vào, sản xuất, và bao tiêu, phân phối và cần làm thực hiện những hoạt động truyền thông tăng khả năng tin tưởng từ phía khách hàng cũng như tăng khả năng cạnh tranh của HTX trên thị trường nước ngoài.

Thứ ba, các HTX cần ứng dụng công nghệ thông tin/IoT để kết nối với nhau, đồng thời kết nối với hệ thống của các khách hàng lớn trên thế giới để có thể thường xuyên cập nhật thông tin, dữ liệu về nhu cầu, năng lực đáp ứng, theo dõi cập nhật tình trạng đơn hàng, tình trạng chuyển hàng, các xu hướng mới của thị trường, các cơ hội kinh doanh và đầu tư mới…

Thứ tư, xây dựng đội ngũ làm truyền thông, marketing cho HTX một cách chuyên nghiệp bằng cách thu hút nhân tài từ nhiều nguồn như từ lĩnh vực kinh tế khác, từ những cơ sở giáo dục đào tạo để có những kế hoạch truyền thông bài bản, hiệu quả và sáng tạo.

Thứ năm, là xây dựng cơ sở vật chất hiện đại để đáp ứng được nhu cầu về công nghệ của hoạt động truyền thông, marketing.

Thứ sáu, các HTX quy mô lớn cần chú trọng đến việc xây dựng năng lực sáng tạo, thiết kế mẫu mã sản phẩm mới, xây dựng thương hiệu và đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, để gia tăng giá trị cho sản phẩm.

Giải pháp cho nhóm hợp tác xã đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước

Những HTX thuần túy đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước thì chủ yếu cần nghiên cứu khả năng ứng dụng công nghệ thông tin để kết nối với mạng lưới các nhà phân phối/đại lý trên toàn quốc nhằm chia sẻ và cập nhật thông tin, số liệu về sản lượng, tiêu thụ, tình trạng đơn hàng, tình trạng chuyển hàng... Công nghệ thông tin cũng có thể được các làng nghề này ứng dụng để quảng bá, tiếp thị làng nghề và các sản phẩm mà HTX đến với các khách hàng tiềm năng trong và ngoài nước.

Tiếp theo, các HTX này cũng cần xây dựng đội ngũ làm truyền thông, marketing một cách hiệu quả. Những HTX có sản phẩm tinh xảo, hoàn toàn thủ công cần chú trọng đến việc xây dựng năng lực sáng tạo, thiết kế mẫu mã sản phẩm mới, xây dựng thương hiệu và đăng ký bảo hộ nhãn hiệu để gia tăng giá trị cho sản phẩm của mình và sử dụng công nghệ thông tin làm phương tiện để quảng bá, giới thiệu sản phẩm và làng nghề tới các khách hàng tiềm năng.           

Tài liệu tham khảo:

  1. Tạ Ngọ Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội;
  2. Nguyễn Đình Thọ, Nguyễn Thị Mai Trang (2007), Nghiên cứu thị trường, NXB Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh;
  3. Nguyễn Xuân Lãn, đinh Thị Lệ Trâm (2007), “Sự tiến triển trong tiếp cận lý thuyết và thực hành Marketing”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ đại học Đà Nẵng, 21-2007,105-111;
  4. R.Eric Reidenbach & Reginald W. Goeke (2007), Cạnh tranh giành khách hàng và chiến thắng bằng giá trị, NXB Lao động – Xã hội, TP. Hồ Chí Minh (Đặng Kim Cương biên soạn);
  5. Tôn Thất Nguyễn Thiêm (2006), Thị trường chiến lược cơ cấu, NXB Trẻ,
    TP. Hồ Chí Minh;
  6. Agarwal, Sanjeev and R. Kenneth Teas (2001), "Perceived Value: Mediating Role of Perceived Risk", Journal of Marketing Theory & Practice,9(4), 1-14;
  7. Baker, Julie, A. Parasuraman, Dhruv Grewal, and Glenn B. Voss (2002), "The Influence of Multiple Store Environment Cues on Perceived Merchandise Value and Patronage Intentions", Journal of Marketing, 66(2),120-141;
  8. Blackwell. R.D., Miniard, P.W., Engel, F. (2002), Cunsumer Behavior, 9th edition South-western, ThomsonLearning.