Việt Nam làm gì để cân bằng các mục tiêu phát triển khi rủi ro về khí hậu gia tăng?

Xuân Trường

Việt Nam đang chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và phải đối mặt với những vấn đề về cách ứng phó. Báo cáo quốc gia về Khí hậu và Phát triển cho Việt Nam của Ngân hàng Thế giới (WB) đề xuất Việt Nam chuyển đổi mô hình phát triển bằng cách kết hợp hai con đường quan trọng - con đường chống chịu và con đường khử cacbon - sẽ giúp đất nước cân bằng các mục tiêu phát triển trong bối cảnh rủi ro về khí hậu ngày càng tăng.

Biến đổi khí hậu sẽ khiến Việt Nam mất khoảng 12% đến 14,5% GDP mỗi năm vào năm 2050

Sau hơn hai thập kỷ tăng trưởng ổn định, Việt Nam đặt ra mục tiêu đạt mức thu nhập cao vào năm 2045. Trong Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội 2021-2030, chuyển đổi kinh tế của đất nước sẽ phụ thuộc nhiều vào việc quản lý tốt nguồn vốn tự nhiên gồm trữ lượng tài nguyên nông nghiệp, rừng và khoáng sản, giúp thúc đẩy sự phát triển bền vững.

Với hơn 3.200 km bờ biển và nhiều khu vực dân cư trũng thấp, cùng với địa hình đồng bằng sông nước, Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trên thế giới trước biến đổi khí hậu. Các tác động của biến đổi khí hậu (nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng…) đã và đang làm ảnh hưởng tới các hoạt động kinh tế và suy giảm tăng trưởng của Việt Nam. Các tính toán ban đầu cho thấy, Việt Nam mất khoảng 10 tỷ USD vào năm 2020, tương đương 3,2% GDP do tác động của biến đổi khí hậu.

Nếu không có các biện pháp thích ứng và giảm thiểu phù hợp, ước tính biến đổi khí hậu sẽ khiến Việt Nam mất khoảng 12% đến 14,5% GDP mỗi năm vào năm 2050 và có thể đẩy tới một triệu người vào tình trạng nghèo vào năm 2030. Khi xem xét chiến lược khí hậu của Việt Nam trong tương lai, bản Báo cáo khuyến nghị các hành động của cả khu vực Nhà nước và tư nhân xây dựng khả năng chống chịu với khí hậu, đạt được cam kết về mức phát thải khí nhà kính ròng bằng 0 vào năm 2050, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, đồng thời hỗ trợ các hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế carbon thấp, thích ứng với khí hậu.

Cũng theo Báo cáo, việc Việt Nam theo đuổi con đường phát triển thích ứng với khí hậu và không phát thải ròng đòi hỏi các khoản đầu tư bổ sung khoảng 6,8% GDP, tương đương 368 tỷ USD tích lũy đến năm 2040. Với sự kết hợp các chính sách và chiến lược phù hợp, Việt Nam có thể tận dụng các nỗ lực khử cacbon của mình để phát triển các mục tiêu phát triển sao cho không phát thải ròng không làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP. Các cam kết của Chính phủ cần được củng cố bằng sự tham gia của khu vực tư nhân trong nước và thông qua tài chính bên ngoài, công và tư.

Một số khuyến nghị chính

Báo cáo quốc gia về Khí hậu và Phát triển cho Việt Nam của Ngân hàng Thế giới (WB) đề xuất Việt Nam chuyển đổi mô hình phát triển bằng cách kết hợp hai con đường quan trọng - con đường chống chịu và con đường khử cacbon - sẽ giúp đất nước cân bằng các mục tiêu phát triển trong bối cảnh rủi ro về khí hậu ngày càng tăng.

Con đường phục hồi thông qua việc bảo vệ tài sản, cơ sở hạ tầng và con người

- Các biện pháp thích ứng cần tập trung vào các lĩnh vực và địa điểm dễ bị tổn thương nhất, đặc biệt là nông nghiệp, giao thông, thương mại và công nghiệp, các khu vực ven biển và Đồng bằng sông Cửu Long.

- Các cải cách chính sách bổ sung trong lĩnh vực tài khóa và tài chính sẽ là cần thiết để kích thích các khoản đầu tư cần thiết từ cả khu vực công và tư nhân.

- Tổng nhu cầu tài chính ước tính khoảng 254 tỷ USD từ năm 2022 đến năm 2040, bao gồm 219 tỷ USD để nâng cấp tài sản tư nhân và cơ sở hạ tầng công cộng, cộng với 35 tỷ USD cho các chương trình xã hội.

Con đường khử cacbon đưa Việt Nam đến mức không phát thải carbon vào năm 2050

Ước tính, việc tăng thuế carbon sẽ tạo ra doanh thu bổ sung 80 tỷ USD. Ảnh: WB.
Ước tính, việc tăng thuế carbon sẽ tạo ra doanh thu bổ sung 80 tỷ USD. Ảnh: WB.

- Cần đầu tư đáng kể vào năng lượng, giao thông, nông nghiệp và công nghiệp.

- Đầu tư theo ngành cần được hỗ trợ bởi các công cụ định giá carbon, công cụ này sẽ thay đổi hành vi và giúp tài trợ cho quá trình chuyển đổi. Ví dụ, việc tăng thuế carbon lên 29 USD cho mỗi tấn carbon dioxide tương đương vào năm 2030 và 90 USD vào năm 2040 sẽ tạo ra doanh thu bổ sung 80 tỷ USD.

- Các biện pháp hỗ trợ sẽ cho phép theo đuổi mục tiêu bằng 0 ròng mà không làm chậm tăng trưởng GDP.

- Tổng nhu cầu tài chính cho quá trình khử cacbon ước tính khoảng 114 tỷ USD trong giai đoạn 2022-2040. Trong đó, hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng (khoảng 64 tỷ USD); cho công nghiệp, giao thông và nông nghiệp (17 tỷ USD); và cho các chương trình xã hội hỗ trợ (33 tỷ USD).

Huy động tài chính trong nước, tìm kiếm hỗ trợ từ bên ngoài

- Thu hẹp khoảng cách tài trợ sẽ đòi hỏi phải phân bổ lại các khoản tiết kiệm tư nhân trong nước cho các dự án liên quan đến khí hậu, tăng tiết kiệm công và hỗ trợ tài chính từ bên ngoài.

- Nguồn vốn công có thể chiếm khoảng một phần ba kinh phí và có thể được tài trợ thông qua thuế carbon hoặc bằng cách đi vay trong thị trường trong nước.

- Nguồn tài chính tư nhân trong khoảng 3,4% GDP mỗi năm có thể được huy động thông qua tín dụng xanh của các ngân hàng, cổ phiếu xanh và trái phiếu xanh và áp dụng các công cụ giảm thiểu rủi ro.

Những gói chính sách ưu tiên đại diện cho các khoản đầu tư công để đạt được các mục tiêu thích ứng và giảm thiểu:

- Chương trình khu vực phối hợp cho Đồng bằng sông Cửu Long.

- Chương trình đầu tư tổng hợp về khả năng chống chịu ven biển cho các trung tâm đô thị chính và cơ sở hạ tầng kết nối.

- Chương trình mục tiêu giảm ô nhiễm không khí ở Hà Nội để đạt mục tiêu tạm thời của WHO vào năm 2030, đồng thời nâng cao năng suất lao động.

- Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng sạch để bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất.