Điều tra chống bán phá giá đầu tiên ở Việt Nam: Tự vệ bình đẳng và chính đáng

Nghi Thu

(Tài chính) Sau hơn 1 năm tiến hành điều tra vụ chống bán phá giá liên quan đến thép không gỉ cán nguội nhập khẩu từ Malaysia, Indonesia, Trung Quốc và lãnh thổ Đài Loan, ngày 5/9 vừa qua Bộ Công Thương đã ban hành quyết định áp thuế chống bán phá giá. Như vậy, đây là lần đầu tiên Việt Nam áp dụng biện pháp tự vệ chống bán phá giá nhằm tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng và phù hợp với chuẩn mực quốc tế đối với tất cả các doanh nghiệp (DN).

Lần đầu tiên Việt Nam áp dụng biện pháp tự vệ chống bán phá giá nhằm tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng và phù hợp với chuẩn mực quốc tế đối với tất cả các doanh nghiệp. Nguồn: tinnhanhchungkhoan.vn
Lần đầu tiên Việt Nam áp dụng biện pháp tự vệ chống bán phá giá nhằm tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng và phù hợp với chuẩn mực quốc tế đối với tất cả các doanh nghiệp. Nguồn: tinnhanhchungkhoan.vn

Lần đầu tiên khởi kiện

Trên thế giới, nếu bị cạnh tranh không lành mạnh từ các đối tác nước ngoài, DN thường sử dụng kiện chống bán phá giá như một chiến lược kinh doanh. Thực tế cho thấy, việc một nước thực hiện các vụ kiện chống bán phá giá đối với một hay nhiều nước là điều hết sức bình thường. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng thông qua các Hiệp định Thương mại tự do, việc kiện chống bán phá giá được xem là một trong ba công cụ hợp pháp và hữu ích mà các DN và ngành hàng có thể sử dụng để bảo vệ thị trường nội địa của mình. Mục đích của việc áp thuế chống bán phá giá không phải để bảo hộ nền sản xuất trong nước mà để lập lại môi trường cạnh tranh công bằng giữa hàng hóa nước ngoài đang nhập khẩu và đang bán phá giá với hàng hóa được sản xuất trong nước. 

Theo Hiệp hội Thép Việt Nam, ở nước ta, so với nhu cầu trong nước hiện nay, năng lực sản xuất thép không gỉ trong nước có thể hoàn toàn đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng. Tuy nhiên, thực tế sản xuất ở các DN đến nay vẫn chưa thể đạt được công suất thiết kế do phải cạnh tranh gay gắt với một lượng lớn thép không gỉ nhập khẩu đến từ Trung Quốc, Malaysia, Indonesia và vùng lãnh thổ Đài Loan. Trước thực tế DN nước ngoài bán phá giá gây ảnh hưởng đến sản xuất trong nước, các DN Việt Nam đành phải yêu cầu, kiến nghị cơ quan chức năng điều tra.

Cụ thể, ngày 6/5/2013, hai công ty sản xuất thép trong nước là Công ty TNHH Posco VST (Hàn Quốc) và Công ty cổ phần Inox Hòa Bình đã nộp hồ sơ yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với các nước và vùng lãnh thổ nêu trên tới Bộ Công Thương. Sau khi thẩm tra hồ sơ, nhận thấy bên nguyên đơn có đủ tư cách khởi kiện, ngày 2/7/2013, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 4460 về việc tiến hành điều tra vụ việc. Ngày 25/12/2013, Bộ Công Thương tiếp tục ban hành Quyết định 9990 về việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá tạm thời trong 120 ngày. Ngày 5/9/2014, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 7896 về việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội nhập khẩu vào Việt Nam từ Malaysia, Indonesia, Trung Quốc và lãnh thổ Đài Loan, trong đó áp dụng nhiều mức thuế khác nhau đối với các nước, vùng lãnh thổ kể trên trong 5 năm. Cụ thể, Việt Nam sẽ chính thức áp thuế chống bán phá giá với các sản phẩm nhập khẩu từ các thị trường này từ ngày 5/10 tới: Đài Loan chịu mức thuế cao nhất 13,79 – 37,29%; tiếp đó là Malaysia 10,71%; Trung Quốc 4,64 – 6,87%; và thấp nhất là Indonesia với 3,07%. Việc Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 7896/QĐ-BCT áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội dạng cuộn hoặc tấm nhập khẩu từ 4 quốc gia, vùng lãnh thổ được coi là động thái cho thấy các cơ quan chức năng cũng như DN đã sẵn sàng cho việc tạo lập sân chơi bình đẳng, phù hợp với chuẩn mực quốc tế khi các biện pháp tự vệ được sử dụng một cách chính đáng.

Đại diện Bộ Công Thương cho biết, trong quá trình điều tra vụ kiện, khối lượng xử lý công việc rất lớn, khi lần đầu tiên cùng một lúc tiến hành áp thuế chống bán phá giá với 4 quốc gia. Sản phẩm áp thuế chống bán phá giá cũng phức tạp với nhiều loại thép không gỉ phải làm sao xác định được sản phẩm thật chuẩn xác, phải phân tích thật kỹ sản phẩm đó theo từng mã. Mỗi mã ấy sẽ có giá riêng, chi phí sản xuất riêng. Do đó, vụ kiện này được khởi xướng từ tháng 7/2013 và phải sau hơn 1 năm mới kết thúc được.

Như vậy, sau 10 năm thực hiện Pháp lệnh về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam (năm 2004) và 8 năm thực hiện Hiệp định chống bán phá giá của Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO), nước ta đã phải đối mặt với 100 vụ kiện phòng vệ thương mại, trong đó có 50 vụ kiện chống bán phá giá. Ngay trong năm 2014, chúng ta đã chứng kiến nhiều vụ việc Việt Nam bị kiện chống bán phá giá các mặt hàng vải bạt nhựa, ống dẫn dầu, lốp xe đạp và sản phẩm thép hàn không gỉ chịu lực, tấm thép không hợp kim cán nóng... Vụ điều tra chống bán phá giá liên quan đến thép không gỉ cán nguội nhập khẩu từ các quốc gia và vùng lãnh thổ trên là vụ kiện đầu tiên Việt Nam chính thức thực hiện vai trò khởi kiện, thay vì đi chống kiện như trước.

Thêm nhiều bài học quý

Theo bà Phạm Châu Giang, Trưởng phòng Phòng điều tra các vụ kiện phòng vệ thương mại của DN trong nước, Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương), hiện các DN chưa thực sự quan tâm và coi các biện pháp phòng vệ thương mại như chiến lược trong kinh doanh. Thực tế cho thấy, trong vụ kiện đối với sản phẩm thép lần này, ngoài hạn chế từ nguồn nhân lực của cơ quan điều tra, rào cản về ngôn ngữ, hệ thống tài chính kế toán thì sự chuẩn bị của các DN liên quan chưa tốt. Hơn nữa, đối với công cụ chống bán phá giá, các DN ngành thép dù đã tham gia nhiều, nhưng nhìn chung vẫn chưa thực sự có ý thức phối hợp cùng các cơ quan điều tra để cung cấp số liệu, thông tin giúp quá trình điều tra chuẩn xác và thuận lợi.

Theo các chuyên gia kinh tế, sau vụ việc lần này, DN Việt Nam có thể rút ra nhiều bài học cho mình. Trong thời gian tới, với các vụ tranh chấp thương mại thì các hiệp hội, DN cần có chuẩn bị tốt nhất về nhân lực, lựa chọn người tư vấn và có sự chuẩn bị thật kỹ về hồ sơ yêu cầu điều tra để có kết quả tốt nhất. Bên cạnh đó, để việc khởi kiện được thuận lợi và dễ dàng, DN nhất thiết phải tham vấn luật sư trong nước và quốc tế. Ngoài ra, các DN cũng cần phải ý thức được việc phối hợp chặt chẽ cùng các cơ quan điều tra để cung cấp số liệu, thông tin giúp quá trình điều tra chuẩn xác và thuận lợi. Tránh tình trạng khi cơ quan điều tra thông báo các bên liên quan, các DN đăng ký để có thể tiếp cận hồ sơ thì rất nhiều DN không quan tâm và đến khi có nảy sinh vấn đề, có quyết định áp thuế, các DN mới muốn tìm hiểu, tiếp cận hồ sơ, tài liệu thì đã muộn. Đồng thời, cũng nên tránh tình trạng các DN thường phản biện rất sơ sài, không đưa ra những chứng cứ, thông tin đầy đủ để bảo vệ chính mình. Điều này khiến việc đánh giá lợi ích kinh tế-xã hội trong nước của các cơ quan thẩm tra, đánh giá chưa sát thực.

Về phía các cơ quan quản lý nhà nước, cần tích cực tăng cường năng lực chuyên môn và nguồn nhân lực để giúp DN trong các vụ tranh tụng thương mại quốc tế. Điều đáng mừng là tới đây, Cục Quản lý cạnh tranh sẽ phối hợp với cộng đồng DN tích cực điều tra ở các vụ việc khác nếu đủ yếu tố cấu thành các hàng rào kỹ thuật, thương mại hợp pháp. Ngoài ra, cơ quan này cũng khuyến khích DN nếu nhận thấy dấu hiệu hàng nhập khẩu bán phá giá hoặc giá thấp tại thị trường Việt Nam, gây thiệt hại cho sản xuất trong nước, thì có thể liên hệ Cục Quản lý cạnh tranh để được tư vấn DN, xem xét hồ sơ.

Theo Bộ Công Thương, việc áp thuế chống bán phá giá sẽ không gây ảnh hưởng nhiều đến các DN nhập khẩu sản phẩm thép không gỉ. Theo Công văn số 8300 ngày 23/6/2014 của Bộ Tài chính về áp dụng thuế tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, sẽ áp dụng thuế chống bán phá giá như thuế nhập khẩu. Tức là khi DN nhập khẩu hàng hóa này gia công chế xuất để xuất đi nước ngoài thì sẽ được miễn thuế chống bán phá giá hoặc được hoàn lại trong trường hợp nếu đã phải nộp thuế chống bán phá giá. Như vậy, có thể nói kết quả vụ kiện này không tác động đến DN nhập khẩu của Việt Nam sử dụng sản xuất để xuất khẩu đi nước ngoài. Còn đối với các DN sử dụng để sản xuất cho hàng hóa trong nước, hiện xuất khẩu thép vào Việt Nam có nhiều nước, do đó, các nhà sản xuất trong nước có thể nhập khẩu từ các nguồn khác mà không bị đánh thuế chống bán phá giá. Hơn nữa vì sản phẩm nhập khẩu thì chỉ chiếm phần nhỏ nên sẽ không tác động quá nhiều đến thị trường và người tiêu dùng.