Đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính

PGS., TS, Nguyễn Hòa Bình - Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao

Ở nước ta, chế định hòa giải, đối thoại đã được quy định trong các đạo luật và triển khai trên thực tế. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để đổi mới, phát huy đầy đủ hơn nữa các giá trị và ý nghĩa của hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính. Để làm được điều này, đòi hỏi phải khẩn trương đánh giá nghiêm túc, bài bản và toàn diện các cơ chế pháp luật hiện hành cũng như công tác triển khai trên thực tế, đặc biệt là cần nghiên cứu kỹ lưỡng kinh nghiệm thành công của các nước để chọn lọc, tiếp thu phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Giá trị của hòa giải, đối thoại đối với quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính

Có nhiều phương thức giải quyết các tranh chấp, bất đồng trong đời sống xã hội, trong đó hòa giải, đối thoại được đánh giá là phương thức văn minh, có nhiều ưu điểm, được hầu hết các nước trên thế giới khuyến khích áp dụng.

Để phát huy đầy đủ các giá trị của hòa giải, nhiều nước đã triển khai phương thức này theo những cách rất đa dạng, như hòa giải ngoài tòa án, hòa giải bên cạnh tòa án và hòa giải tại tòa án.

Phương thức hòa giải, đối thoại có nhiều ưu điểm và mang lại những giá trị quan trọng đối với quá trình giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn. Cụ thể là: 

Thứ nhất, các thông tin được bảo mật. Bảo mật thông tin trong hòa giải, đối thoại là nguyên tắc đầu tiên mà các bên phải tuân thủ, từ đó tạo ưu thế của phương thức này so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác.

Khác với phiên tòa xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự, việc hòa giải, đối thoại được tiến hành trong môi trường riêng, chỉ có sự tham gia của các bên liên quan, giúp các bên yên tâm, tin tưởng, ngồi lại với nhau để tìm giải pháp cho vấn đề tranh chấp, bất đồng.

Thậm chí, có thể nói hết những khúc mắc, nguyên nhân sâu xa dẫn đến mâu thuẫn, điều mà không phải khi nào cũng có được ở các phiên tòa công khai, nhất là với các vụ án ly hôn. Đây chính là tiền đề đầu tiên tạo nên sự thành công của hòa giải, đối thoại.

Thứ hai, giúp giải quyết triệt để, hiệu quả các tranh chấp mà không phải mở phiên tòa xét xử. Mục tiêu của hòa giải, đối thoại là tìm được các giải pháp hợp lý để giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn, chứ không phải phán xét tính đúng, sai hay khiếm khuyết của quan hệ tranh chấp, mâu thuẫn đó.

Chính vì vậy, vấn đề chứng cứ, tranh tụng, đối kháng như tại phiên tòa xét xử đã không còn trở nên quan trọng nữa. Thay vào đó, tạo ra môi trường giúp các bên lắng nghe nhau, hiểu hơn hoàn cảnh và nguyện vọng thực sự của nhau, khuyến khích các bên cùng đề xuất các giải pháp và lựa chọn giải pháp phù hợp nhất mà hai bên cùng chấp nhận.

Thứ ba, tạo thuận lợi đối với quá trình thi hành án. Hòa giải, đối thoại hay xét xử tại tòa án đều là những phương thức sử dụng sự tham gia của bên thứ ba. Tuy nhiên, người đưa ra quyết định trong phương thức xét xử chính là bên thứ ba (tòa án).

Còn với phương thức hòa giải, đối thoại, người đưa ra quyết định là hai bên đương sự, vì vậy rất thuận lợi cho quá trình thi hành án. Kết quả hòa giải, đối thoại thành công sẽ được các bên tự nguyện thi hành mà không cần đến sự can thiệp của cơ quan thi hành án. Việc tôn trọng kết quả hòa giải, đối thoại cũng giúp các bên giữ gìn uy tín, tiếp tục hợp tác như khi chưa xảy ra tranh chấp.

Thứ tư, thủ tục mang tính thân thiện. Khác với thủ tục xét xử, thủ tục hòa giải, đối thoại được quy định mềm dẻo, đơn giản, quá trình tiến hành có thể được điều chỉnh linh hoạt để phù hợp với diễn biến vụ, việc.

Thậm chí, khi lựa chọn phương thức hòa giải ngoài tòa án, các bên còn có quyền thỏa thuận về trình tự, thủ tục hòa giải. Không gian cho việc hòa giải, đối thoại cũng được bố trí rất thân thiện, tạo sự gần gũi, bình đẳng. Ngôn ngữ và cách xưng hô được chú trọng để phù hợp với đặc điểm của các bên và loại việc đang giải quyết.

Cách thức tiến hành hòa giải, đối thoại là đàm phán, thuyết phục lẫn nhau, chứ không phải là thẩm vấn, đối tụng, từ đó làm dịu căng thẳng, kéo các bên xích lại gần nhau, cởi mở trao đổi, tìm tiếng nói chung để giải quyết vụ, việc.

Thứ năm, tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức. Đây được xem là một trong những ưu điểm nổi bật của hòa giải, đối thoại. Nếu các bên tìm được tiếng nói chung và hòa giải thành công thì kết quả hòa giải sẽ được tòa án công nhận và có hiệu lực ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị.

Việc thi hành kết quả hòa giải cũng được tiến hành một cách tự giác và nhanh chóng, bởi xuất phát từ sự tự nguyện của các bên. Trong khi đó, nếu lựa chọn phương thức xét xử, do không đạt được sự đồng thuận, vụ án có thể phải tuần tự trải qua các trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, thậm chí quay lại tố tụng từ đầu.

Phương thức xét xử đặt ra gánh nặng rất lớn về thời gian và chi phí cho cả đương sự và Nhà nước, đồng thời phải tuân theo quy định chung; còn với hòa giải, đối thoại, thời gian và chi phí tố tụng hoàn toàn do các bên đương sự kiểm soát và quyết định.

Thứ sáu, mang lại ý nghĩa lớn về xã hội. Sự điều hành kiên trì, tâm huyết, khéo léo của thẩm phán hòa giải hoặc hòa giải viên không chỉ giúp giải quyết triệt để tranh chấp, mâu thuẫn, mà còn mang lại ý nghĩa lớn về xã hội.

Hòa giải thành công sẽ giúp giữ gìn uy tín của các bên, hàn gắn các quan hệ bị rạn nứt; khôi phục và củng cố tình cảm gia đình, xóm giềng, hợp tác kinh doanh; tạo sự đồng thuận cao trong cộng đồng, tăng cường sự đoàn kết trong nhân dân; phòng ngừa các vi phạm, tội phạm có thể phát sinh từ mâu thuẫn, tranh chấp, qua đó thúc đẩy xã hội phát triển bền vững.

Thứ bảy, huy động nguồn lực xã hội có chất lượng cao tham gia công tác hòa giải. Đội ngũ hòa giải viên, đối thoại viên sẽ được lựa chọn rộng rãi từ những người làm công tác pháp luật, các cán bộ tư pháp đã nghỉ hưu, luật sư, luật gia, các chuyên gia, nhà tâm lý, người kinh doanh... Đây là những người có kiến thức toàn diện, kinh nghiệm, kỹ năng, tâm huyết, đóng góp quan trọng vào sự thành công của công tác hòa giải, đối thoại.

Thứ tám, giảm tải áp lực đối với công tác xét xử và công tác thi hành án. Qua theo dõi, nhiều nước trên thế giới đã và đang phải đối diện với sự quá tải trong giải quyết các vụ án dân sự, thương mại.

Nhiều giải pháp được đề ra, trong đó nỗ lực cải tiến nhằm phát huy hiệu quả của phương thức hòa giải đã được các nước lựa chọn và trở thành phương thức phổ biến trong giải quyết tranh chấp.

Kết quả là, ở những nước phát triển, hầu hết việc giải quyết tranh chấp được tiến hành thông qua hòa giải, chỉ còn một tỷ lệ rất nhỏ các vụ án dân sự phải đưa ra xét xử và phải cưỡng chế thi hành án.

Điều này giúp cho tòa án tập trung nguồn lực, nâng cao chất lượng xét xử; đồng thời giảm gánh nặng đầu tư của ngân sách vào việc giải quyết các tranh chấp và thi hành án, mà thực chất là từ tiền thuế đóng góp của nhân dân.

Thứ chín, giúp tòa án đánh giá đầy đủ bản chất của vụ, việc để phán quyết đúng đắn. Trường hợp hòa giải tuy không thành, nhưng quá trình tòa án tiến hành hòa giải sẽ giúp cho thẩm phán nắm rõ tình tiết của vụ, việc; mấu chốt của vấn đề tranh chấp; tâm tư, nguyện vọng, vướng mắc của các bên để từ đó có phương hướng giải quyết đúng đắn khi đưa vụ, việc ra xét xử.

Thứ mười, góp phần xây dựng mối quan hệ tin cậy giữa người dân với chính quyền. Thông qua đối thoại, trao đổi, giải thích, tòa án tạo điều kiện cho chính quyền (người bị kiện) xem xét lại tính hợp pháp trong hành vi và quyết định của mình; đồng thời tạo điều kiện cho người dân (người khởi kiện) xem lại tính có căn cứ của yêu cầu khởi kiện.

Trường hợp quyết định hành chính, hành vi hành chính chưa đúng pháp luật sẽ được chính quyền hủy bỏ kịp thời, lấy lại niềm tin của nhân dân. Trường hợp yêu cầu khởi kiện không có căn cứ, người dân cũng sẽ chủ động rút đơn kiện, qua đó ổn định tình hình tại địa phương, tránh khiếu kiện bức xúc kéo dài, tập trung đông người, hình thành các “điểm nóng”.

Những giá trị nêu trên là rất lớn lao. Để đạt được điều này, phần lớn phụ thuộc vào những người được giao làm công tác hòa giải, đối thoại. Họ phải là những người tâm huyết, sáng tạo, linh hoạt, kéo các bên lại gần nhau, kiên trì thuyết phục, vận động thì mới có được thành công.

Kinh nghiệm hòa giải, thương lượng trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính ở một số nước trên thế giới

Hầu hết các quốc gia có nền tư pháp phát triển đều chú trọng hoàn thiện chế định hòa giải, thương lượng và xem đây là phương thức phổ biến, hữu hiệu, được khuyến khích trong giải quyết các tranh chấp. Việc giải quyết tranh chấp bằng phán quyết của tòa án chỉ là biện pháp cuối cùng khi thương lượng, hòa giải không thực hiện được.

Tại các quốc gia này, hòa giải, thương lượng được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau, trong đó có mô hình “Trung tâm hòa giải bên cạnh tòa án”.

Các hòa giải viên được tòa án tuyển chọn từ các nguồn khác nhau, như thẩm phán, công tố viên, cảnh sát, sĩ quan quân đội đã nghỉ hưu, luật sư, chuyên gia pháp luật, chuyên gia tâm lý và chuyên gia thuộc nhiều chuyên ngành khác. Kết quả hòa giải được tòa án xem xét, công nhận khi đương sự có yêu cầu.

Mô hình này đã được áp dụng thành công tại nhiều quốc gia, như Mỹ, Pháp, Ấn Độ, Xin-ga-po, Thái Lan, Ma-lai-xi-a, Ca-na-đa và nhiều nước châu Âu..., và được đánh giá là phương thức hữu hiệu, không chỉ giúp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp, mà còn góp phần giảm tải khối lượng công việc phải giải quyết của tòa án, xóa bỏ tình trạng tồn đọng án, đẩy nhanh quá trình giải quyết tranh chấp. 

Ở Ấn Độ, từ năm 2000 đến nay, hệ thống tòa án của nước này phải đối mặt với tình trạng số lượng các vụ án chờ giải quyết rất lớn. Để giải quyết tình trạng này, nhiều giải pháp đã được đề ra, trong đó có mô hình “Trung tâm hòa giải gắn liền với tòa án” đã được thực tiễn chứng minh là phương thức hiệu quả.

Tại Tòa án cấp cao Đê-li (Delhi), từ năm 2009 thành lập Trung tâm Hòa giải gắn liền với tòa án và giao cho Hội đồng điều hành lãnh đạo.

Hội đồng gồm 4 thẩm phán và 4 luật sư, chủ yếu làm nhiệm vụ quyết định các vấn đề thuộc tầm chính sách. Việc hòa giải các vụ, việc cụ thể do các hòa giải viên tiến hành; các thẩm phán đương nhiệm không tham gia hòa giải. Các hòa giải viên được tuyển chọn từ đội ngũ thẩm phán đã nghỉ hưu, đội ngũ luật sư, chuyên gia.

Tiêu chuẩn tuyển chọn hòa giải viên được thực hiện theo Quy chế của Tòa án cấp cao Đê-li. Mỗi ngày, Trung tâm giải quyết khoảng 60 - 80 vụ, việc. Tỷ lệ hòa giải tăng dần qua các năm; gần đây nhất (năm 2017) đạt xấp xỉ 70%. Tại Đê-li và nhiều bang khác của Ấn Độ, mô hình Trung tâm Hòa giải gắn liền với tòa án được mở rộng xuống tới các tòa án cấp quận, huyện và hoạt động rất hiệu quả.

Để thúc đẩy hoạt động hòa giải, Tòa án Tối cao Ấn Độ ban hành Bộ quy tắc hòa giải; Học viện Tư pháp thuộc Tòa án Tối cao Ấn Độ có riêng một chương trình đào tạo về hòa giải cho các học viên. Bên cạnh việc thành lập Trung tâm Hòa giải gắn liền với tòa án, Ấn Độ còn thành lập các diễn đàn địa phương (còn gọi là tòa án của nhân dân), hoạt động trên cơ sở Luật Dịch vụ pháp lý địa phương.

Bản chất của mô hình này là sử dụng đội ngũ thẩm phán đã nghỉ hưu, nhân viên công tác xã hội tham gia giải quyết các tranh chấp nhỏ trong cộng đồng. Thành viên diễn đàn địa phương sẽ trao đổi trực tiếp với các bên để tìm ra phương án giải quyết tranh chấp. Năm 2017, hệ thống này giải quyết thành công hơn 2 triệu vụ, việc tranh chấp.

Ở Nhật Bản, phương thức giải quyết tranh chấp dân sự thông qua hòa giải được chú trọng; trên cơ sở đó, nhiều đạo luật liên quan đã được ban hành. Thiết chế hòa giải gồm 2 loại: hòa giải trong tòa án (do thẩm phán chủ trì) và hòa giải ngoài tòa án (do hòa giải viên chủ trì). Trong tổ chức thực hiện, Nhật Bản triển khai nhiều biện pháp để phát huy hiệu quả của thiết chế hòa giải ngoài tòa án và đạt những kết quả rất tích cực.

Theo số liệu thống kê kết quả hòa giải ngoài tòa án, năm 2016, về vụ, việc gia đình: số vụ hòa giải thành là 73.228 vụ (74,7%), số vụ hòa giải không thành là 24.797 vụ (25,3%), thời gian giải quyết trung bình là 5,5 tháng/vụ; về vụ, việc dân sự: số vụ hòa giải thành là 12.826 vụ (54,6%), số vụ hòa giải không thành là 10.686 vụ (45,4%), thời gian giải quyết trung bình là 3,3 tháng/vụ. Trong khi đó, thời gian giải quyết trung bình tại tòa án là 8,6 tháng/vụ.

Từ sự thành công ở trong nước, thông qua tổ chức JICA, Nhật Bản đã và đang hỗ trợ nhiều quốc gia xây dựng và triển khai thiết chế hòa giải với mục tiêu gia tăng hơn nữa số lượng các vụ, việc được giải quyết bằng cơ chế hòa giải, rút ngắn tối đa thời gian giải quyết, từ đó giảm tải các vụ, việc phải mở phiên tòa xét xử.

Ở Pháp, Bộ luật Tố tụng dân sự dành một số lượng lớn các điều khoản để quy định chi tiết về thủ tục hòa giải. Đối với phương thức hòa giải bên cạnh tòa án, pháp luật quy định, sau khi nhận được yêu cầu của đương sự, tòa án chỉ định hòa giải viên tiến hành hòa giải.

Thời gian hòa giải là 3 tháng; có thể gia hạn thêm 3 tháng. Người được chỉ định hòa giải phải đáp ứng nhiều điều kiện của luật, trong đó có điều kiện “đã được cấp chứng chỉ Hòa giải viên”.

Quyết định áp dụng thủ tục hòa giải do tòa án ban hành, có các nội dung chủ yếu sau: sự đồng ý của các bên về việc áp dụng hòa giải và hòa giải viên được chỉ định; thời hạn thực hiện hòa giải; phí trả thù lao cho hòa giải viên.

Kết thúc hòa giải, nếu các bên thỏa thuận được việc giải quyết tranh chấp, đồng thời theo yêu cầu của các bên, tòa án sẽ ra quyết định công nhận hòa giải thành; nếu hòa giải không thành thì tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tòa án quyết định việc trả thù lao cho hòa giải viên. Quyết định công nhận hòa giải thành không bị kháng cáo, kháng nghị. 

Từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy, để giải quyết tình trạng quá tải trong giải quyết các vụ án dân sự, nhiều nước đã lựa chọn giải pháp cải cách mạnh mẽ thiết chế hòa giải, xây dựng mô hình “Trung tâm hòa giải bên cạnh tòa án”, với phương châm “Hai bên cùng thắng” và đã mang lại những kết quả rất quan trọng.

Đây là kinh nghiệm quý cho Việt Nam trong quá trình nghiên cứu, tham khảo để đề xuất những giải pháp căn cơ, đột phá cho công tác giải quyết các vụ án dân sự, hành chính.

Thực tiễn hòa giải, đối thoại trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính ở nước ta thời gian qua

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) quy định hòa giải là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự, là việc bắt buộc phải tiến hành, là trách nhiệm của tòa án và mỗi thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ, việc dân sự, trừ những trường hợp không được hòa giải và không thể hòa giải được theo quy định của Bộ luật.

Cụ thể hóa nguyên tắc nêu trên, BLTTDS dành nhiều điều luật, ở nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau để tạo điều kiện tối đa cho việc hòa giải và tạo thuận lợi cho các bên thỏa thuận.

Theo đó, việc hòa giải không chỉ được tiến hành ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, mà tại phiên tòa sơ thẩm, hội đồng xét xử có quyền tạm ngừng phiên tòa khi các bên thống nhất đề nghị tòa án tạm ngừng phiên tòa để họ tự hòa giải. Tại phiên tòa phúc thẩm, nếu các đương sự tự nguyện thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì hội đồng xét xử ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Bên cạnh đó, BLTTDS còn quy định thẩm quyền và trách nhiệm của tòa án trong việc xem xét, ra quyết định công nhận kết quả hòa giải các vụ, việc ngoài tòa án.

Trước khi có Luật Tố tụng hành chính năm 2015, thủ tục đối thoại được quy định mang tính chất tùy nghi. Song trên thực tế, nhiều thẩm phán đã vận dụng sáng tạo tinh thần hòa giải trong tố tụng dân sự và nguyên tắc về quyền tự định đoạt của các bên đương sự vào quá trình giải quyết khiếu kiện hành chính và đạt được thành công, giải quyết dứt điểm nhiều khiếu kiện phức tạp.

Trên cơ sở đó, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã quy định đối thoại trong giải quyết các khiếu kiện hành chính là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hành chính, tòa án có trách nhiệm tổ chức đối thoại và tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự đối thoại.

Quán triệt yêu cầu của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Tòa án Nhân dân tối cao xác định nâng cao chất lượng hòa giải, đối thoại là nhiệm vụ trọng tâm của toàn hệ thống tòa án giai đoạn hiện nay và trong thời gian tiếp theo.

Trên cơ sở đó, Tòa án Nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị chuyên đề (Chỉ thị số 04/2017/CT-TA, ngày 03/10/2017), về “Tăng cường công tác hòa giải tại tòa án nhân dân”, trong đó đặt ra các chỉ tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện.

Đặc biệt, Chỉ thị giao chỉ tiêu cho các tòa án phải bảo đảm: “Số vụ hòa giải thành đạt 60% trở lên/năm; 100% số quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; không có quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự khó thi hành hoặc không thi hành án được”.

Đồng thời, phát động phong trào thi đua “Nâng cao số lượng, chất lượng, hiệu quả hòa giải vụ án dân sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”; hoàn thiện chỉ tiêu thi đua - khen thưởng theo hướng coi trọng công tác hòa giải, trong đó, trước mắt, 1 vụ án hòa giải thành được tính chỉ tiêu thi đua bằng 2 vụ án đã xét xử, nhằm kịp thời động viên, khuyến khích các thẩm phán tích cực hòa giải, đối thoại, tạo sự chuyển động thực sự trong toàn hệ thống tòa án.

Quán triệt chỉ đạo của Tòa án Nhân dân tối cao, tòa án nhân dân các cấp đã tích cực tổ chức công tác hòa giải, qua đó giảm số lượng các vụ án phải đưa ra xét xử.

Tỷ lệ hòa giải các vụ án dân sự tại tòa án các cấp trung bình đạt 50% số vụ phải giải quyết; đặc biệt, có những tòa án đạt tỷ lệ hòa giải thành 70%, thậm chí đạt 80%, do có cách làm bài bản, sáng tạo, trong đó có việc giao cụ thể cho mỗi thẩm phán phải đề xuất một sáng kiến với công tác hòa giải, đối thoại.

Bên cạnh đó, cũng còn có tòa án đạt tỷ lệ hòa giải thấp; một số ít thẩm phán chưa nhận thức được đầy đủ ý nghĩa và giá trị của hòa giải để coi trọng đúng mức công tác này; kỹ năng, phương pháp, kinh nghiệm hòa giải còn hạn chế; tỷ lệ đối thoại thành công trong giải quyết các vụ án hành chính đạt thấp (khoảng 10%).

Có thể nói, trong tiến trình cải cách tư pháp, các quy định của pháp luật về hòa giải, đối thoại đã được quan tâm sửa đổi, bổ sung thường xuyên nhằm phát huy hiệu quả. Song thực tiễn thi hành vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn.

Tình trạng gia tăng các vụ án dân sự, hành chính; có nhiều vụ án phải trải qua nhiều cấp xét xử; quá tải trong giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm kéo dài qua nhiều năm đặt ra yêu cầu phải có những giải pháp đột phá để đổi mới mạnh mẽ và tăng cường hơn nữa hiệu quả hòa giải, đối thoại trong giải quyết các vụ án dân sự, hành chính.

Từ vấn đề nêu trên, được sự đồng ý của Chủ tịch nước và Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, Tòa án Nhân dân tối cao đã tiến hành thí điểm hòa giải, đối thoại tại thành phố Hải Phòng. Mô hình thí điểm là thành lập Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thành phố.

Trong đó, cử 1 Phó Chánh án Tòa án thành phố trực tiếp đảm nhiệm vị trí Giám đốc Trung tâm; các hòa giải viên, đối thoại viên được tuyển chọn từ cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật đã nghỉ hưu, đội ngũ luật sư và những người khác có kiến thức pháp luật.

Việc trang bị kiến thức, tập huấn kỹ năng cho các hòa giải viên được tổ chức bài bản, kỹ lưỡng, mang tính thực tiễn cao, dưới sự hướng dẫn của các thẩm phán, các chuyên gia giàu kinh nghiệm, tâm huyết ở trong nước và quốc tế.

Hằng tuần, hằng tháng tổ chức rút kinh nghiệm và báo cáo kết quả, tiến độ về Tòa án Nhân dân tối cao. Với cách tổ chức chặt chẽ và khoa học nêu trên, mặc dù thời gian thí điểm chưa nhiều nhưng đã cho kết quả rất tốt, trung bình mỗi tuần Trung tâm Hòa giải, đối thoại giải quyết thành công từ 70 đến 100 vụ, việc.

Quá trình thí điểm thành công sẽ tạo bước đột phá đối với việc giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, là cơ sở thực tiễn quan trọng cho việc đề xuất mô hình hòa giải, đối thoại bên cạnh tòa án như kinh nghiệm của các nước có nền tư pháp tiến bộ trên thế giới.

Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính ở nước ta thời gian tới

Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của công tác hòa giải, đối thoại, Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005, của Bộ Chính trị, về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đề ra nhiệm vụ: “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài”; Nghị quyết số 37/2012/QH13, ngày 23/11/2012, của Quốc hội, về “Công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của viện kiểm sát nhân dân, của tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013” yêu cầu Tòa án Nhân dân tối cao chỉ đạo tòa án nhân dân các cấp “nâng cao tỷ lệ hòa giải thành các vụ việc dân sự”.

Quán triệt chỉ đạo nói trên của Bộ Chính trị và Quốc hội, Tòa án Nhân dân tối cao xác định những nhiệm vụ trọng tâm của công tác hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính thời gian tới như sau:

Một là, tổ chức công tác giải quyết các vụ án dân sự, hành chính theo tinh thần mới. Với các vụ án này, công lý không chỉ đơn giản là việc tuyên ai thắng, ai thua, mà quan trọng là tìm ra được phương án phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và nguyện vọng thực sự của hai bên, để cả hai bên cùng thắng.

Do đó, hòa giải, đối thoại phải là hướng ưu tiên để quyết liệt triển khai thực hiện. Đây chính là thước đo sự tiến bộ của nền tư pháp.

Điều này đặt ra trách nhiệm đối với mỗi tòa án là phải đề ra các biện pháp cụ thể; giao chỉ tiêu tới từng thẩm phán; hỗ trợ các điều kiện để thẩm phán hoàn thành tốt nhiệm vụ; sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời, sâu sắc để nâng cao chất lượng và số lượng các vụ, việc hòa giải, đối thoại thành công.

Hai là, với mỗi thẩm phán, phải toàn tâm, toàn ý, kiên trì, sáng tạo, trách nhiệm, nhiệt huyết, đáp ứng những đòi hỏi đặc biệt về kiến thức, kỹ năng mới đạt được thành công. Theo đó, trước mỗi phiên hòa giải, thẩm phán phải có sự chuẩn bị thật chu đáo, kỹ lưỡng.

Phải nghiên cứu cụ thể hồ sơ vụ, việc; xác định những vấn đề mấu chốt của tranh chấp, mâu thuẫn để tập trung tháo gỡ; xây dựng môi trường để các bên có thể lắng nghe, đàm phán, tôn trọng lẫn nhau; nắm bắt tâm lý các bên, đi sâu phân tích có tình, có lý, sát hợp với diễn biến vụ, việc; kiên trì tìm kiếm các giải pháp khả thi mà hai bên cùng chấp nhận.

Thái độ, tác phong, sự đồng cảm, chia sẻ của thẩm phán cũng là những yếu tố quan trọng làm nên thành công của hòa giải, đối thoại.

Ba là, các đơn vị tham mưu thuộc Tòa án Nhân dân tối cao sớm hoàn thành việc biên soạn giáo trình và sổ tay thẩm phán về công tác hòa giải, đối thoại để thuận lợi cho các thẩm phán tham khảo; tổ chức tập huấn chuyên sâu các quy định của pháp luật, các quy chế, quy trình, kỹ năng hòa giải, đối thoại, kết hợp với thảo luận, giải đáp vướng mắc qua thực tiễn thực hiện; chú trọng hoạt động sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để nhân rộng những cách làm sáng tạo, hiệu quả, đồng thời khắc phục những hạn chế, yếu kém; kịp thời thông tin, biểu dương những tòa án và thẩm phán có tỷ lệ hòa giải, đối thoại cao; tăng cường hợp tác quốc tế nhằm trao đổi, học tập những kinh nghiệm tốt của các nước.

Bốn là, tiếp tục tổ chức bài bản, chặt chẽ mô hình thí điểm “Trung tâm hòa giải, đối thoại tại tòa án” ở thành phố Hải Phòng. Những vướng mắc phát sinh trong quá trình thí điểm phải được giải quyết kịp thời nhằm tạo ra mô hình mẫu mực ngay sau khi kết thúc thí điểm.

Trên cơ sở kết quả thí điểm, hoàn thiện “Đề án tổng thể về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, hành chính” để báo cáo Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương.

Đồng thời, đề xuất và trình Quốc hội thông qua Luật Về hoạt động hòa giải, đối thoại tại tòa án nhân dân; cho phép hình thành bộ máy thực thi và các điều kiện bảo đảm cho việc vận hành thiết chế này để triển khai đồng bộ trên phạm vi cả nước.

Từ kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam cho thấy, thực hiện hiệu quả cơ chế hòa giải, đối thoại có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính, cụ thể là góp phần tăng cường sự đồng thuận trong xã hội; giảm tải số lượng các vụ, việc phải đưa ra xét xử, khắc phục tình trạng quá tải án, tạo điều kiện để tòa án tập trung các nguồn lực nâng cao hơn nữa chất lượng xét xử.

Do đó, cải cách toàn diện công tác hòa giải, đối thoại, đề xuất thành lập mô hình hòa giải bên cạnh tòa án như cách làm của quốc tế là hướng đi đúng, nhất là trong điều kiện hiện nay số lượng các tranh chấp, khiếu kiện ngày càng gia tăng nhưng biên chế phải tinh giản.

Giảm áp lực án nhưng không làm tăng biên chế sẽ đạt được kết quả tốt trong điều kiện cơ chế hòa giải, đối thoại được tổ chức và triển khai đúng hướng.