Kinh tế thế giới: Những dự báo lạc quan

TS. Lương Văn Khôi - Trưởng Ban Kinh tế thế giới, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia

(Tài chính) Nền kinh tế thế giới được dự báo sẽ tiếp tục hồi phục trong năm 2014 và những năm tiếp theo, trong đó có sự đóng góp đáng kể của sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ, châu Âu và các nền kinh tế đang nổi. Thương mại quốc tế và các dòng vốn quốc tế được xem là những động lực cho kinh tế thế giới giai đoạn 2014 - 2015, tạo điều kiện để nền kinh tế toàn cầu lấy lại đà tăng trưởng trong giai đoạn 2016 - 2020.

Năm 2014 - 2015, kinh tế thế giới hồi phục

Động lực dẫn dắt kinh tế toàn cầu trước đây vốn thuộc về các quốc gia đang phát triển thì đến nay đã không còn thể hiện nhiều, thay vào đó, các quốc gia phát triển đang đóng vai trò quan trọng đối với đà phục hồi của nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, sự phục hồi của thương mại, các dòng vốn quốc tế và sự giảm bớt căng thẳng trong lĩnh vực tài khóa thế giới là những nhân tố tác động tích cực đối với tăng trưởng của kinh tế thế giới. Theo đó, tốc độ tăng trưởng của kinh tế thế giới được dự báo sẽ đạt mức 3,5% vào năm 2014 và 3,7% vào năm 2015 so với mức 3,0% năm 2013. Tuy nhiên, vẫn tiềm tàng những rủi ro có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng của kinh tế thế giới trong năm 2014, như rủi ro địa - chính trị và nguy cơ tăng trưởng giảm tại các nền kinh tế đang nổi, mức độ thay đổi chính sách vĩ mô tại các nước có thu nhập cao có thể dẫn đến một loạt bất ổn mới.

Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ được dự báo sẽ đạt mức 1,9% năm 2014 và tăng 3,0% vào năm 2015 so với mức tăng 1,9% của năm 2013. Sự phục hồi của nền kinh tế hàng đầu thế giới được coi là động lực chính vực dậy nền kinh tế toàn cầu. Khu vực châu Âu giai đoạn này cũng sẽ phục hồi ổn định dựa trên sự tăng trưởng mạnh của các lĩnh vực, như đầu tư, xuất nhập khẩu và sự phục hồi của cầu nội địa.

Nền kinh tế khu vực Liên minh châu Âu (EU) được dự báo sẽ tăng trưởng ở mức 1,5% năm 2014 và 2,0% năm 2015 (từ mức 0,13% năm 2013). Trong khi đó, khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) được dự báo có mức phục hồi là 1,0% năm 2014 và 1,8% năm 2015 (từ mức -0,4% năm 2013). Dự báo, đầu tư của khu vực này trong hai năm 2014 và 2015 sẽ chiếm khoảng 18,2% GDP; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 3,7%; kim ngạch nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 3,4%. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp vẫn sẽ là vấn đề cần giải quyết của khu vực này.

Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), tỷ lệ lạm phát của khu vực châu Âu ở dưới mức mục tiêu 2%. Cụ thể, tỷ lệ lạm phát của EU là 1,6% năm 2014 và 1,8% năm 2015; khu vực eurozone tương ứng là 0,9% và 1,2%. Tỷ lệ thất nghiệp của khu vực eurozone sẽ không cải thiện nhiều với các mức là 11,9% và 11,6% vào các năm 2014, 2015 (năm 2013 ở mức 12,1%).

Các nền kinh tế Đông Á được đánh giá có sự phục hồi tốt hơn. Chẳng hạn như Nhật Bản được dự báo sẽ có mức tăng trưởng GDP là 1,4% năm 2014 nhờ sự tăng trưởng của lĩnh vực đầu tư tư nhân và xuất khẩu. Tuy nhiên, từ giữa năm 2014 đến năm 2015, mức tăng trưởng kinh tế sẽ giảm bớt do tác động từ chính sách thắt chặt tài khóa của Chính phủ, cụ thể là chính sách tăng thuế tiêu thụ theo hai lộ trình: từ 5%-8% vào quý II/2014 và từ 8%-10% vào quý IV/2015.

Nền kinh tế đứng thứ hai thế giới là Trung Quốc được dự báo sẽ chỉ đạt mức 7,4% trong năm 2014 (giảm so với 7,6% trong năm 2013) và 7,2% năm 2015. Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại là do nhu cầu bên ngoài yếu dẫn đến xuất khẩu của nước này yếu, trong khi đó, nguồn vốn bên ngoài chảy vào sụt giảm mạnh khiến đầu tư bị hạn chế, tình trạng suy yếu trầm trọng của thị trường bất động sản và bong bóng tín dụng tăng lên, những rủi ro lớn của vấn đề nợ công và nợ trong lĩnh vực “ngân hàng mở” ngày càng tăng, tăng trưởng doanh thu và tiêu dùng trong nước cũng chững lại.

Tăng trưởng tại các nền kinh tế đang nổi và đang phát triển sẽ tăng từ 4,6% năm 2014 lên mức 5,2% năm 2015. Tuy tốc độ tăng trưởng có ít hơn so với thời kỳ bùng nổ 2003-2007, nhưng đây không phải là điều đáng ngại. Mức khác biệt đó chỉ thể hiện sự giảm nhiệt quá trình tăng trưởng nóng và không bền vững trong thời kỳ trước khủng hoảng, chứ không liên quan đến sụt giảm tiềm năng tăng trưởng tại các nước này.

Đối với một số lĩnh vực chủ yếu của kinh tế thế giới, như luồng vốn tư nhân chảy vào các nước đang phát triển sẽ phụ thuộc vào điều kiện tài chính toàn cầu. Khi chính sách tiền tệ tại các nước có thu nhập cao được bình thường hóa thì tỷ lệ lãi suất trên toàn cầu sẽ tăng dần. Theo Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD), dòng vốn FDI sẽ tăng trưởng liên tục, trong năm 2014, FDI được dự báo sẽ đạt mức trên 1.600 tỷ USD và nâng lên mức trên 1.800 tỷ USD năm 2015. Về thương mại, sự phục hồi kinh tế tại các nước phát triển có thu nhập cao sẽ làm tăng nhu cầu hàng xuất khẩu từ các nước đang phát triển.

Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),  ngày 14/4/2014, nâng dự báo tăng trưởng thương mại toàn cầu năm 2014 lên 4,7% từ mức dự báo 4,5% trước đó do triển vọng phục hồi khả quan của nền kinh tế thế giới; đến năm 2015, con số này là 5,3%. Theo Ngân hàng Thế giới (WB) tháng 6/2014, dự tính thương mại toàn cầu sẽ tăng trưởng ở mức 4,1% năm 2014 và 5,1% năm 2015 so với mức 2,6% năm 2013. Tuy nhiên, dưới sự tác động của những diễn biến kinh tế thế giới gần đây, thương mại toàn cầu được dự báo sẽ tăng trưởng ở mức 4,5% vào năm 2014 và tăng lên mức 5,6% vào năm 2015.

Đối với lĩnh vực tài khóa, cho đến năm 2015, căng thẳng tài khóa sẽ giảm bớt nhờ sự phục hồi kinh tế từ hầu hết các quốc gia trong năm 2014. Đây là lý do khiến động thái chính sách tài khóa trong thời gian tới sẽ hướng tới việc xây dựng không gian chính sách, cải cách tài khóa và ổn định nợ trong trung hạn. IMF dự báo, thâm hụt ngân sách của các nền kinh tế trên thế giới sẽ tiếp tục giảm trong các năm tới. Cụ thể, thâm hụt ngân sách trung bình của thế giới sẽ ở mức 3,5% GDP năm 2014 và 3% GDP năm 2015 từ mức 3,8% GDP của năm 2013. Khu vực các nền kinh tế phát triển đạt được những cải thiện đáng kể, với mức thâm hụt ngân sách trung bình đạt 4,3% trong năm 2014, 3,6% trong năm 2015, giảm rõ rệt từ mức 4,9% năm 2013. Trong đó, nhờ các chính sách thắt chặt tài khóa nghiêm ngặt, thâm hụt ngân sách của khu vực eurozone tiếp tục giảm xuống 2,6% trong năm 2014, 2,0% trong năm 2015, từ mức 3,0% trong năm 2013.

Tỷ lệ thâm hụt ngân sách của Nhật Bản và Mỹ vẫn ở mức cao, lần lượt được dự báo ở mức 7,2% và 6,4% năm 2014; 6,4% và 5,6% năm 2015. Mặc dù những lo ngại về tài khóa đã giảm tại các nước phát triển, song IMF lại cảnh báo nguy cơ tài khóa vẫn còn tiềm tàng và có xu hướng tăng tại các nền kinh tế đang nổi và đang phát triển. Thâm hụt ngân sách/GDP tại các nền kinh tế này được dự báo ở mức 2,5% trong năm 2014 và 2,2% trong năm 2015, so với mức 2,4% của năm 2013.

Tình trạng nợ công thế giới được IMF dự báo sẽ không có nhiều cải thiện trong thời gian tới. Dự báo, nợ công trung bình của thế giới sẽ ở mức 78,2% GDP năm 2014 và 77,5% GDP năm 2015, giảm không đáng kể từ mức 78,6% GDP của năm 2013. Nợ công của các nền kinh tế phát triển sẽ vẫn ở mức rất cao, 107,1% GDP năm 2014 và 106,5% GDP năm 2015, gần như giữ nguyên mức của năm 2013, trong khi nợ công của các nền kinh tế đang nổi và đang phát triển được dự báo chỉ ở mức 33,7% GDP năm 2014 và 33% năm 2015. Nền kinh tế Mỹ có mức nợ công năm 2014 và 2015 được dự báo ở mức 105,7%, tăng nhẹ so với mức 104,5% của năm 2013, trong khi nợ công trung bình của các nền kinh tế thuộc khu vực eurozone được dự báo là 95,6% GDP năm 2014 và 94,5% GDP năm 2015, so với mức 95,2% GDP của năm 2013. Nền kinh tế Nhật Bản sẽ vẫn là nền kinh tế có nợ công cao nhất thế giới (243,5% GDP năm 2014 và 245,1% GDP năm 2015), tăng nhẹ so với năm 2013 (243,2% GDP).

Giá hàng hóa trên thế giới được đánh giá tăng trở lại trong năm 2014, trong đó giá hàng hóa ngoài dầu tăng 2,7%, giá dầu tăng 0,4%. Nguyên nhân giá dầu tăng là do sự lạc quan vào nền kinh tế Mỹ tăng trưởng trở lại và do tình hình chính trị tại khu vực miền Đông U-crai-na tiếp tục diễn biến phức tạp. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu sẽ là 6,1% trong cả năm 2014. Sự phục hồi thị trường lao động toàn cầu bị chậm lại do nhu cầu việc làm giảm mạnh. Tại nhiều nước phát triển, việc cắt giảm chi tiêu công trong khi tăng thu nhập và thuế tiêu thụ đang là gánh nặng đối với nhiều doanh nghiệp và hộ gia đình.

Triển vọng phục hồi của kinh tế thế giới từ nay đến năm 2015 sẽ tạo đà cho tăng trưởng của kinh tế toàn cầu giai đoạn 2016 - 2020.

Giai đoạn 2016 - 2020: Kinh tế thế giới lấy lại đà tăng trưởng

Kết quả dự báo tăng trưởng của kinh tế thế giới qua việc sử dụng mô hình NiGEM cho thấy, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới sẽ đạt mức 3,9% giai đoạn 2016 - 2020.

                    Kinh tế thế giới giai đoạn 2014-2015 và triển vọng giai đoạn 2016 - 2020 (%)

Năm

Tốc độ tăng trưởng kinh tế thực (a)

Thương mại thế giới (b)

Giá dầu (USD/ thùng)


Thế giới

OECD

Trung Quốc

EU-27

Eurozone

Mỹ

Nhật Bản

Đức

Pháp

2013

3,0

1,3

7,6

0,1

-0,4

1,9

1,5

0,5

0,4

2,8

107,1

2014

3,5

1,9

7,4

1,5

1,0

1,9

1,4

2,0

0,5

4,5

106,5

2015

3,7

2,4

7,2

2,0

1,8

3,0

0,6

1,9

1,9

5,6

100,5

2004-2009

3,8

1,5

10,9

1,2

1,0

1,4

0,1

0,8

1,0

4,8

63,2

2010-2015

3,7

2,0

8,3

1,1

0,9

2,3

1,5

2,1

1,2

5,7

102,0

2016-2020

3,9

2,7

6,6

2,4

2,3

2,9

0,8

2,0

2,2

5,7

104,9


Nguồn: Tác giả sử dụng kết quả tính toán từ mô hình NiGEM

Ghi chú: a: Tăng trưởng GDP được tính theo ngang giá sức mua năm 2005; b: Thương mại hàng hóa và dịch vụ

Kinh tế Mỹ trong năm 2014 sẽ khởi sắc, thị trường việc làm cũng có nhiều dấu hiệu khả quan, gói cứu trợ QE-3 tiếp tục được cắt giảm. Về tổng thể, những diễn biến tích cực sẽ mang đến cho nền kinh tế Mỹ mức tăng trưởng là 2,9% giai đoạn 2016 - 2020. Đối với kinh tế châu Âu, đây sẽ là thời kỳ tăng tốc hơn với mức tăng trưởng GDP trung bình của khu vực EU là 2,4%. Dự báo này căn cứ vào khả năng tăng trưởng đầu tư của khu vực sẽ ở mức 20,2% GDP, thâm hụt ngân sách trở về mức 2,1% GDP, nợ công trung bình đạt 97% GDP, tổng tiết kiệm quốc gia đạt 17,4% GDP. Đối với kinh tế Nhật Bản, năm 2016, thâm hụt ngân sách giảm xuống mức 0,7% nhưng sẽ tăng lên mức 1% trong 2 năm tiếp theo (2017 - 2018); dự báo giai đoạn 2016 - 2020 ở mức 0,8%.

Nền kinh tế Trung Quốc sẽ tiếp tục hạ nhiệt và duy trì ở mức khoảng 7%/năm. Mặc dù vậy, để đạt mục tiêu này, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với những thách thức, như cạnh tranh toàn cầu về vốn, tài nguyên và khả năng tham gia các tổ chức quốc tế (như G7), cũng như giải quyết được các vấn đề nội tại trong nền kinh tế. Với việc đưa thêm giả định Trung Quốc tăng dần tỷ giá hối đoái mục tiêu giữa đồng nhân dân tệ so với đồng USD, ở mức 2,5%/năm cho giai đoạn 2014 - 2016 và sự sụt giảm dòng vốn FDI vào Trung Quốc trong thời gian tới, nền kinh tế Trung Quốc được dự báo sẽ chỉ tăng trưởng ở mức khoảng 6,6% cho giai đoạn 2016 - 2020.

Tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế đang nổi nhìn chung có xu hướng phục hồi khá, trong đó, nền kinh tế Brasin sẽ đạt tốc độ tăng trưởng 1,5% trong năm 2015 và 3,6% giai đoạn 2016 - 2020. Tăng trưởng của Ấn Độ lần lượt là 5,8% và tăng lên mức 6,7%, trong khi đó, các con số này đối với Nam Phi tương ứng là 3,0% và 3,4%, Hàn Quốc là 3,5% và 4,4%.

Trong khu vực ASEAN, Singapore là nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá với mức tăng 3,9% trong năm 2015, nhưng mức trung bình cho giai đoạn 2016 - 2020 là giảm nhẹ còn 3,3%; trong khi đó, In-đô-nê-xi-a cũng có tốc độ tăng trưởng khá với các mức tương ứng là 5,4% và 5,0%.

Thương mại thế giới được dự báo sẽ tăng trưởng ở mức 5,7% trong giai đoạn 2016 - 2020. Trong đó, Trung Quốc và Ấn Độ được xem là những quốc gia có tốc độ tăng trưởng thương mại cao nhất trong giai đoạn này, bình quân khoảng 22%/năm; lượng nhập khẩu sẽ đạt khoảng 18,5%/năm. Trong giai đoạn này, thương mại nội khối châu Á sẽ có tầm ảnh hưởng lớn đến mức cầu thế giới.

Khu vực Trung Đông, Bắc Mỹ và Tiểu vùng Sahara sẽ có những thay đổi đáng kể trong việc mở cửa thương mại, do đó, khu vực này sẽ đóng vai trò lớn trong việc lắp ráp và sản xuất hàng hóa. Trong các mặt hàng xuất khẩu, máy móc và linh kiện vận tải sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng. Bên cạnh đó, các nước phát triển sẽ tiếp tục thặng dư trong việc xuất khẩu dịch vụ sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương, giúp cho thương mại dịch vụ được phát triển nhanh chóng.

Tình hình các dòng vốn trên thế giới nhìn chung sẽ có điều chỉnh giảm trong năm 2015 và có xu hướng hồi phục dần, ổn định vào các năm tiếp theo, đạt khoảng 4% GDP thế giới từ năm 2018 - 2020. Các quốc gia đang phát triển được dự báo sẽ có tốc độ tăng trưởng cao về tầng lớp trung lưu. Điều này sẽ khiến dòng vốn FDI chuyển hướng từ việc đặt nhà máy sản xuất để phục vụ xuất khẩu sang việc phục vụ nhu cầu nội địa. Cùng với đó, xu hướng tầng lớp trung lưu của các quốc gia đang phát triển sử dụng dịch vụ nhiều hơn cũng sẽ tạo ra xu hướng chuyển đầu tư từ khu vực sản xuất sang khu vực dịch vụ.

Đến năm 2020, tình hình thâm hụt ngân sách của các nền kinh tế trên thế giới có nhiều cải thiện hơn, nhưng nợ công sẽ vẫn ở mức cao. Cụ thể, thâm hụt ngân sách tại Mỹ và Nhật Bản được dự báo lần lượt là 6,9% và 4,1% GDP vào năm 2015 và giai đoạn 2018 - 2020, nhưng nợ công gần như vẫn không có nhiều cải thiện, với 257% và 115% GDP. Trong khi đó, nhờ các nỗ lực thắt chặt tài khóa, thâm hụt ngân sách và nợ công của khu vực châu Âu sẽ được cải thiện đáng kể, cụ thể ở các mức tương ứng là 2,1% GDP và 97% GDP. Bên cạnh đó, thị trường tiền tệ thế giới sẽ vẫn đối mặt với tình trạng biến động không ngừng. Giá của các đồng tiền chính sẽ tiếp tục thay đổi kèm theo xu hướng can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối của các quốc gia đang không ngừng tăng.

Thị trường lao động việc làm thế giới được đánh giá sẽ chưa có nhiều cải thiện trong thời gian tới. Theo báo cáo của ILO, tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu sẽ dần xấu đi và số lao động thiếu việc làm có thể sẽ lên tới hơn 213 triệu vào năm 2019. Dự báo, chỉ có khoảng 40 triệu việc làm mới được tạo ra mỗi năm, ít hơn con số được kỳ vọng là 42,6 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu sẽ không thay đổi nhiều trong vòng 5 năm tới.

Như vậy, bên cạnh những kết quả phục hồi đáng kể của một số nền kinh tế hàng đầu thế giới, dự báo nền kinh tế thế giới từ nay đến năm 2020 vẫn còn nhiều diễn biến không mấy khả quan. Những rủi ro vẫn còn hiện hữu, như căng thẳng chính trị tại một số quốc gia, khu vực kinh tế, có xu hướng gia tăng, nhưng rủi ro trên thị trường tài chính vẫn còn, tình trạng nợ công chưa được giải quyết triệt để,... có thể sẽ có những tác động tiêu cực tới đà phục hồi bền vững của nền kinh tế thế giới.

Trong bối cảnh đó, nếu không có đột phá về chính sách và đổi mới mô hình tăng trưởng, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam nhiều khả năng chỉ đạt khoảng 4,5% - 5,0% giai đoạn 2016 - 2020 với mức thâm hụt ngân sách trung bình cho cả giai đoạn này sẽ ở mức 4,9% GDP.