Nhật Bản và chính sách kinh tế "Abenomics"

Theo chinhphu.vn

Chương trình kinh tế Abe hay "Abenomics" được coi như "cây nỏ liên châu" bắn ra 3 mũi tên.

Chính phủ của Thủ tướng Shinzo Abe đã đạt được một số thành tựu kinh tế rõ rệt. Nguồn: Internet
Chính phủ của Thủ tướng Shinzo Abe đã đạt được một số thành tựu kinh tế rõ rệt. Nguồn: Internet

Đúng nửa năm lên nắm quyền sau thắng lợi vang dội trong cuộc bầu cử hôm 26/12/2012, Chính phủ của Thủ tướng Shinzo Abe đã đạt được một số thành tựu kinh tế rõ rệt. Điều này được thể hiện qua tỷ lệ ủng hộ sau 6 tháng cầm quyền đã lên trên 70%.

Theo các chuyên gia kinh tế Nhật Bản và thế giới, thành tựu đó đạt được nhờ một số biện pháp Chính phủ của ông Abe đưa ra, mà các chuyên gia gọi là "chính sách kinh tế kiểu Abe" hay "Abenomics".

Chương trình kinh tế Abe được coi như "cây nỏ liên châu" bắn ra 3 mũi tên: thứ nhất là tăng chi để nâng mức đầu tư trong các dự án xây dựng, thứ hai là bơm thêm tiền vào kinh tế để đẩy lui nạn giảm phát và đạt mức tăng trưởng cao hơn, thứ ba là cải tổ cơ chế kinh tế và cả xã hội để kéo xứ sở ra khỏi 20 năm trì trệ và lụn bại.

Về những thành tích mới sau một giai đoạn u ám kéo dài, GDP 6 tháng đầu năm của Nhật Bản tăng 1,8%, gấp 3 lần hai quý trước, quy ra toàn năm, tăng trưởng đạt 3,5%. Thứ hai, 60% lực đẩy của đà tăng trưởng ấy lại đến từ sức tiêu thụ, xưa nay vốn dĩ èo uột vì dân Nhật không dám chi tiêu nên kinh tế mới bị giảm phát. Thứ ba, vì lượng tiền rất lớn dự tính bơm ra để nhân đôi khối tiền tệ lưu hành và đạt chỉ tiêu lạm phát là 2%, nên đồng Yên sụt giá mạnh so với các ngoại tệ khác. Nó góp phần nâng cao số xuất khẩu và nhất là mức lời của doanh nghiệp Nhật. Nhờ vậy, chỉ số Nikkei của cổ phiếu Nhật đã tăng đến 70% so với tháng 11/2012.

Chính phủ Nhật báo trước là sẽ ào ạt bơm tiền, có thể tới 220 tỷ USD/tháng, để đạt cho được mức lạm phát là 2%/năm. Không chỉ khuyến khích người dân nên tiêu tiền trước khi có lạm phát, chính quyền còn đòi đánh thuế tiền tiết kiệm của tư nhân và doanh nghiệp, mục đích là khuyến khích đầu tư và tiêu thụ để kích hoạt nền kinh tế đình trệ. Động lượng thứ hai là bơm tiền như vậy thì sẽ làm đồng Yên mất giá và thực tế thì đồng Yên đã sụt 30% so với USD và 37% so với đồng Euro. Đó là chủ trương “Enyasu”, tức là “đồng Yên rẻ”. Theo nhật báo chuyên về kinh doanh của Nhật, tờ Nihon Keizai, thì mỗi khi đồng Yên sụt giảm 1 đơn vị so với đồng USD, chẳng hạn như 99 đồng thì phải 100 đồng mới đổi được 1 USD, thì doanh lợi của 30 công ty xuất khẩu lớn nhất của Nhật tăng được 2,7 tỷ USD nhờ xuất khẩu. Nghĩa là nhiều doanh nghiệp Nhật vừa thắng lớn trong mấy tháng qua và thổi lên niềm hy vọng.

Chính sách “Abenomics” là sự trở lại và có điều chỉnh của "Hiệu ứng Abe" khi ông Shinzo Abe trở thành Thủ tướng lần đầu tiên vào năm 2006. Khi ấy, ông Shinzo Abe đã nêu ra một kế hoạch lớn lao trong tinh thần mang màu sắc Minh Trị Thiên hoàng vào thế kỷ 19 là “nước giàu, quân mạnh”, tức là phải phục hồi kinh tế và xây dựng.

Ông Abe, khi đó, đã đưa ra một loạt biện pháp kinh tế, song không đạt được kết quả, nên chỉ 1 năm sau ông từ chức với lý do "sức khỏe".

Khi Nhật Bản bị bể bóng đầu tư cổ phiếu và địa ốc năm 1989 rồi kinh tế sa sút từ năm 1991 thì trong 22 năm liên tục, GDP của Nhật Bản không tăng, kinh tế suy giảm 7 lần và 15 vị Thủ tướng đã thay nhau cầm quyền mà không có giải pháp thích hợp. Suốt 13 năm qua, lãi suất tại Nhật nằm ở số không, kinh tế giảm phát, hàng hóa xuống giá nhưng bán không chạy, gánh công trái đã lên tới 240% tổng sản lượng. Đã vậy, dân số Nhật bị lão hóa nên số người tham gia sản xuất giảm 1%/năm....

Sau khi trở lại nắm quyền, ông Abe đã điều chỉnh "hiệu ứng Abe" không thành công trước đây và lần này, kinh tế Nhật Bản đi lên.

Sau khi đạt một số thành tích, nhờ đó hy vọng thắng cử tại Thượng viện vào tháng 7/2013 để có đa số rất mạnh ở cả hai viện, Chính quyền Abe mong có đủ hậu thuẫn để vượt sức cản của nhiều thành trì bảo thủ, đó là nội dung cải cách sắp tới.

Theo các chuyên gia, công cuộc cải cách sắp tới đi theo một vài hướng chính.

Thứ nhất là cải cách nông nghiệp và đất đai. Nông dân Nhật là lực lượng chính trị xưa nay vẫn ủng hộ Đảng Tự do Dân chủ để duy trì chế độ bảo hộ mậu dịch, hạn chế nhập khẩu nông sản và chi phối cả quyền sử dụng đất canh tác. Với hậu thuẫn của ngành công nghiệp, ông Abe trù tính sửa đổi tình trạng này nên mới chủ trương tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Nếu việc này thành công thì đây là một bước đột phá rất lớn và tăng cường vai trò quốc tế của Nhật trong vùng Thái Bình Dương.

Thứ hai, cải cách chế độ lao động để nâng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì dân số giảm sút, Nhật chỉ có tương lai nhờ nâng cao năng suất. Theo Thủ tướng Abe, phải giải phóng thị trường lao động thì Nhật mới có được năng suất ngang bằng với các nền kinh tế mạnh.

Thứ ba, hệ thống bán lẻ của Nhật, xưa nay vẫn là loại cửa hàng nhỏ của các hộ gia đình với một chu trình phân phối và tiếp liệu phức tạp và kém hiệu năng, chỉ tồn tại là nhờ trợ cấp, biện pháp thuế khóa lẫn luật lệ quy hoạch có mục tiêu bảo vệ và loại bỏ cạnh tranh. Hệ thống ấy cũng đánh sụt năng suất trong ngành bán lẻ. Ngoài ra, còn nhiều lĩnh vực khác cũng phải được tái cơ cấu, như cải tổ quyền sử dụng đất, quy hoạch về xây dựng, hoặc hệ thống dịch vụ y tế quá rườm rà, hay cải tổ thuế vụ và giải tỏa hành chính... Nói chung, đây là loại vấn đề tồn tại từ mấy chục năm nhưng không giải quyết được.

Rút kinh nghiệm của một vị tiền nhiệm có nỗ lực cải cách là Thủ tướng Junichiro Koizumi từ 2001-2006, ông Abe đang tiến từng bước, mỗi bước lại tranh thủ được hậu thuẫn của một số thành phần có lợi nhờ việc cải cách, để cuối cùng đem lại kết quả chung là có lợi cho cả quốc gia.

Yếu tố hy vọng nữa là thắng lợi kinh tế ở bên ngoài cũng huy động được sự ủng hộ chính trị ở bên trong. Chúng ta thấy ra điều ấy khi Thủ tướng Abe vượt qua mâu thuẫn với Liên bang Nga về chủ quyền trên các quần đảo Kurils ở phía Bắc để tìm cách hợp tác với Nga về năng lượng. Chính quyền Abe còn chủ động mở ra kế hoạch yểm trợ ASEAN vào đầu tháng này để vừa tranh thủ quyền lợi vừa tăng cường vai trò quốc tế của Nhật./.