Nhận biết khách hàng liên quan đến hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố

PV.

Luật Phòng, chống rửa tiền đã có quy định các tổ chức tài chính phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng liên quan đến hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Từ những năm 90 của thế kỷ XX, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng hiệu quả đã có những yêu cầu về nhận dạng khách hàng được biết đến như là các quy tắc về “hiểu biết khách hàng của bạn” (KYC). KYC ngày nay không chỉ giúp các tổ chức tài chính, các tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan phát hiện, giúp cơ quan chức năng ngăn ngừa được những hoạt động rửa tiền và tài trợ cho khủng bố mà còn bảo vệ được hoạt động của chính đối tượng báo cáo khỏi sự lạm dụng của tội phạm.

Khoản 8 Điều 4 Luật Phòng, chống rửa tiền đưa ra khái niệm “khách hàng” là tổ chức, cá nhân đang sử dụng hoặc có ý định sử dụng dịch vụ hoặc sản phẩm do tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan cung cấp. Tuy nhiên, không phải tất cả các khách hàng trong mọi trường hợp đều phải nhận dạng.

Khoản 1 Điều 8 Luật Phòng, chống rửa tiền và Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 116/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật Phòng, chống rửa tiền quy định các tổ chức tài chính phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong các trường hợp sau:

(i) Khi khách hàng mở tài khoản (các loại tài khoản, bao gồm: tài khoản thanh toán, tài khoản tiết kiệm, tài khoản thẻ và các tài khoản khác) hoặc thiết lập giao dịch, tức là lần đầu thiết lập mối quan hệ với tổ chức tài chính;

(ii) Khi khách hàng thực hiện giao dịch không thường xuyên có giá trị lớn tức là giao dịch của khách hàng không có tài khoản hoặc có tài khoản thanh toán nhưng không giao dịch trong vòng 06 tháng trở lên với tổng giá trị từ 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng trở lên trong một ngày; hoặc thực hiện giao dịch chuyển tiền điện tử mà thiếu thông tin về tên, địa chỉ, số tài khoản của người khởi tạo;

(iii) Khi có nghi ngờ giao dịch hoặc các bên liên quan đến giao dịch có liên quan đến hoạt động rửa tiền;

(iv) Khi có nghi ngờ về tính chính xác hoặc tính đầy đủ của các thông tin nhận biết khách hàng đã thu thập trước đó.

Với những quy định nêu trên, việc nhận biết khách hàng đối với các tổ chức tài chính trong mọi trường hợp là không tránh khỏi.

Khoản 2 Điều 8 Luật phòng, chống rửa tiền và từ Khoản 2 đến Khoản 9 Nghị định 116/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật Phòng, chống rửa tiền quy định trường hợp mà từng tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng, theo đó:

(i) Tổ chức, cá nhân kinh doanh trò chơi có thưởng, casino phải tiến hành các biện pháp nhận biết khách hàng đối với các khách hàng có giao dịch với tổng giá trị từ 60.000.000 (sáu mươi triệu) đồng trở lên trong một ngày.

(ii) Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ quản lý bất động sản, môi giới bất động sản và sàn giao dịch bất động sản phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng đối với bên mua, bên bán trong hoạt động môi giới mua, bán bất động sản; đối với chủ sở hữu tài sản trong việc cung cấp dịch vụ quản lý bất động sản.

(iii) Tổ chức, cá nhân kinh doanh kim loại quý và đá quý phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong trường hợp khách hàng có giao dịch bằng tiền mặt mua, bán kim loại quý, đá quý có giá trị từ 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng trở lên trong một ngày.

(iv) Tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ công chứng, kế toán; dịch vụ pháp lý của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng khi thay mặt khách hàng chuẩn bị các điều kiện để thực hiện giao dịch hoặc thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch chuyển giao quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà; dịch vụ quản lý tiền, chứng khoán hoặc các tài sản khác của khách hàng; dịch vụ quản lý tài khoản của khách hàng tại ngân hàng, công ty chứng khoán; dịch vụ điều hành, quản lý hoạt động công ty của khách hàng; tham gia vào hoạt động mua, bán các tổ chức kinh doanh.

(v) Tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ ủy thác đầu tư là tổ chức, cá nhân nhận tiền hoặc tài sản từ một hoặc nhiều tổ chức, cá nhân ủy thác để thực hiện giao dịch liên quan đến tiền hoặc tài sản cho tổ chức, cá nhân ủy thác. Tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ ủy thác đầu tư phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng đối với bên ủy thác.

(vi) Tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ thành lập, quản lý, điều hành doanh nghiệp; cung cấp văn phòng đăng ký, địa chỉ hoặc địa điểm kinh doanh; cung cấp dịch vụ đại diện cho doanh nghiệp phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng sử dụng hoặc yêu cầu các dịch vụ đó.

(vii) Tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ cung cấp giám đốc, thư ký giám đốc của doanh nghiệp cho bên thứ ba phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng đối với bên thứ ba và người giám đốc hoặc thư ký giám đốc đó.

(viii) Tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ cung cấp người đại diện cho cổ đông phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng đối với cổ đông và người đại diện cho cổ đông đó.

Như vậy, đối tượng báo cáo theo Điều 8 Luật phòng, chống rửa tiền là rất rộng, tuỳ thuộc vào chính hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế.