Tình hình chỉ số giá năm 2015

Theo gso.gov.vn


Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

CPI tháng Mười Hai năm nay tăng 0,02% so với tháng trước, trong đó: Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,5% do giá gas điều chỉnh tăng tại thời điểm 01/12/2015 và nhu cầu sửa chữa nhà ở tăng trong những tháng cuối năm; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,32% do nhu cầu mua sắm hàng mùa đông tăng; nhóm đồ uống và thuốc lá, hàng ăn và dịch vụ ăn uống cùng tăng 0,16% (lương thực tăng 0,45% do nhu cầu gạo cho xuất khẩu tăng; thực phẩm tăng 0,13%); thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,14%; giáo dục tăng 0,04%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm: Giao thông giảm 1,57% chủ yếu do giá xăng, dầu trong nước được điều chỉnh giảm vào thời điểm 18/11/2015 và thời điểm 03/12/2015 (làm chỉ số giá xăng dầu giảm 3,39%); thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,1%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,05%; bưu chính viễn thông giảm 0,03%.

CPI tháng 12/2015 tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2014, bình quân mỗi tháng CPI tăng 0,05%. CPI bình quân năm 2015 tăng 0,63% so với bình quân năm 2014. Mức tăng CPI tháng 12/2015 so với cùng kỳ năm 2014 và mức tăng CPI bình quân năm 2015 so với bình quân năm 2014 đều là mức thấp nhất trong 14 năm trở lại đâyvà thấp hơn nhiều so với mục tiêu CPI tăng 5%. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2015 tăng thấp chủ yếu do một số nguyên nhân sau:

- Nguồn cung về lương thực, thực phẩm trong nước dồi dào; sản lượng lương thực của thế giới tăng cùng sự cạnh tranh của các nước xuất khẩu gạo lớn như Thái Lan, Ấn Độ nên xuất khẩu gạo của Việt Nam càng gặp khó khăn, giá lương thực luôn thấp hơn các nước. Bình quân 11 tháng năm nay, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm 30,74 USD/tấn so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu gạo gặp khó khăn đã tác động đến giá bán buôn, bán lẻ gạo trong nước giảm theo; chỉ số giá nhóm lương thực năm 2015 giảm 1,06% so với năm 2014.

- Giá nhiên liệu trên thị trường thế giới gần đây giảm mạnhdẫn đến giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh giảm, kéo theo chỉ số giá của nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng và nhóm giao thông năm 2015 so với năm trước lần lượt giảm 1,62% và giảm 11,92%. Giá gas sinh hoạt trong nước bình quân năm 2015 giảm 18,6% so với năm 2014.

- Các Bộ, ngành và địa phương đã triển khai tích cực và có hiệu quả Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03/01/2015 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, công tác quản lý thị trường, giá cả được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Mức độ điều chỉnh giá của nhóm hàng do Nhà nước quản lý như dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế cũng thấp hơn các năm trước.

Lạm phát cơ bản tháng 12/2015 tăng 0,11% so với tháng trước và tăng 1,69% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2015 tăng 2,05% so với năm trước.

Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Chỉ số giá vàng tháng 12/2015 giảm 2,8% so với tháng trước; giảm 4,97% so với cùng kỳ năm 2014; bình quân năm 2015 giảm 4,73% so với năm 2014. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2015 tăng 0,69% so với tháng trước và tăng 5,34% so với cùng kỳ năm 2014; bình quân năm 2015 tăng 3,16% so với năm 2014.

Chỉ số giá sản xuất

Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2015 giảm 0,28% so với năm trước, trong đó chỉ số giá bán sản phẩm hàng nông nghiệp tăng 0,48%; chỉ số giá bán sản phẩm hàng lâm nghiệp tăng 4,31% và hàng thủy sản giảm 3,39%. Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản quý IV giảm 0,17% so với kỳ trước và giảm 2,43% so với cùng kỳ năm trước

Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp năm nay giảm 0,58% so với năm trước, trong đó chỉ số giá bán sản phẩm khai khoáng giảm 11,24%; chỉ số giá bán sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,04%; chỉ số giá bán điện và phân phối điện tăng 5,78%; chỉ số giá bán nước sạch, nước thải, xử lý nước thải, rác thải tăng 2,79%. Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp quý IV giảm 0,49% so với kỳ trước và giảm 1,34% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá cước vận tải, kho bãi năm 2015 giảm 3,26% so với năm 2014, chủ yếu do giá cước dịch vụ vận tải đường sắt, đường bộ giảm mạnh ở mức 6,02%. Các dịch vụ vận tải khác có giá tăng hoặc giảm nhẹ: Dịch vụ kho bãi và hỗ trợ vận tải tăng 1,36%; vận tải đường thuỷ giảm 2,93%; riêng giá vận tải đường hàng không ổn định. Chỉ số giá cước vận tải quý IV năm nay giảm 1,34% so với kỳ trước và giảm 4,36% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá sản xuất dịch vụ năm 2015 tăng 1,28% so với năm trước, trong đó chỉ số giá dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 2,97%; thông tin và truyền thông tăng 0,41%; giáo dục và đào tạo tăng 5,84%; y tế và trợ giúp xã hội tăng 1,93%; hoạt động chuyên môn, khoa học, công nghệ tăng 1,7%; hoạt động hành chính và hỗ trợ tăng 1,55%. Chỉ số giá dịch vụ quý IV tăng 0,15% so với kỳ trước và tăng 1,09% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa

Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá năm 2015 giảm 3,79% so với năm trước, trong đó một số mặt hàng có chỉ số giá giảm mạnh: Dầu thô giảm 52,98%; xăng dầu các loại giảm 49,83%; cao su giảm 24,13%; than đá giảm 10,04%; dây điện và dây cáp điện giảm 8,2%; sắt, thép giảm 7,55%. Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa quý IV giảm 1,47% so với kỳ trước và giảm 3,58% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá năm 2015 giảm 5,82% so với năm 2014, trong đó một số mặt hàng có chỉ số giá giảm mạnh: Khí đốt hóa lỏng giảm 42,35%; xăng dầu các loại giảm 40,36%; cao su giảm 17,91%; sắt, thép giảm 15,55%; phân bón các loại giảm 14,06%; chất dẻo nguyên liệu giảm 12,99%; thức ăn gia súc và nguyên liệu giảm 10,74%. Chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa quý IV giảm 3,11% so với kỳ trước và giảm 9,66% so với cùng kỳ năm trước.

Tỷ giá thương mại hàng hóanăm nay tăng 2,15% so với năm trước, trong đó tỷ giá thương mại của hàng thủy sản tăng 4,32%; hóa chất tăng 13,13%; sắt thép tăng 9,48%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 6,8%. Tỷ giá thương mại hàng hóa quý IV tăng 1,7% so với kỳ trước và tăng 6,73% so với cùng kỳ năm trước.