Giải đáp kiến nghị của doanh nghiệp Hàn Quốc

Theo baohaiquan.vn

(Tài chính) Trước những nội dung kiến nghị của một số doanh nghiệp (DN) Hàn Quốc về việc nộp các khoản tiền ngoài quy định, bảo lãnh chung và ân hạn thuế đối với nguyên liệu nhập khẩu (NK) sản xuất hàng xuất khẩu (XK)..., Tổng cục Hải quan đã có văn bản trả lời.

Hoạt động sản xuất của Công ty TNHH SamSung Electronic (Bắc Ninh). Nguồn: baohaiquan.vn
Hoạt động sản xuất của Công ty TNHH SamSung Electronic (Bắc Ninh). Nguồn: baohaiquan.vn
DN không phải nộp bất cứ khoản tiền nào ngoài quy định

Một DN Hàn Quốc phản ánh, để được hoàn thuế giá trị gia tăngnhanh hơn DN phải đưa cho cán bộ Hải quan phụ trách một phần trăm nhất định của số tiền được hoàn đó. DN này thắc mắc  đó có phải là thông lệ hay không?

Tổng cục Hải quan khẳng định, ngoài các khoản thu thuế, phí, lệ phí đã được công khai theo quy định, DN không phải nộp bất cứ khoản tiền nào ngoài quy định, càng không phải là thông lệ.

Trong thời gian qua, ngành Hải quan đã thực hiện nhiều biện pháp đơn giản hoá thủ tục hải quan như quy định chủ hàng tự khai, tự tính, tự nộp thuế; hiện đại hoá quản lý hải quan, chuyển đổi phương thức quản lý từ quản lý truyền thống sang phương pháp quản lý hiện đại dựa vào kỹ thuật quản lý rủi ro, thực hiện thông quan điện tử nhằm hạn chế tới mức cao nhất công chức Hải quan tiếp xúc trực tiếp với DN.

Cùng với đó, việc công khai, minh bạch các chính sách và các quy định trên các phương tiện thông tin đại chúng như Báo Hải quan, website Hải quan; niêm yết công khai tại các địa điểm làm thủ tục hải quan nhằm giúp cho người dân và DN nắm được chế độ chính sách cũng như có các động tác phản hồi khi công chức Hải quan gây phiền hà, sách nhiễu, có biểu hiện vòi vĩnh hoặc thông đồng với một số đối tượng để làm trái các quy định của Nhà nước.

Các biện pháp triển khai đồng bộ nêu trên nhằm mục đích tạo thuận lợi cho người dân và DN và thực hiện Liêm chính Hải quan. Người dân và cộng đồng DN khi tham gia hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) trên lãnh thổ Việt Nam cần tìm hiểu kỹ về chính sách quản lý của Chính phủ và các bộ, ngành.

Vì vậy, ngành Hải quan đề nghị các DN góp ý về những vấn đề đang là vướng mắc với hoạt động của mình. Cụ thể: Những quy định, hướng dẫn nào không hợp lý, gây cản trở, khó khăn, phiền hà, tăng chi phí cho hoạt động XNK của DN, nên sửa như thế nào; trong các khâu thủ tục hải quan thì khâu nào DN gặp khó khăn nhất, thường hay bị gây phiền hà nhất; kịp thời phản ánh các trường hợp CBCC Hải quan gây phiền hà, sách nhiễu tiêu cực theo các số điện thoại đường dây nóng của Tổng cục Hải quan để được xử lý kịp thời (các số điện thoại đường dây nóng được đăng tải công khai trên Báo Hải quan, website Hải quan, được niêm yết công khai tại các địa điểm làm thủ tục hải quan).

Bảo lãnh chung

Một DN Hàn Quốc khác phản ánh, theo quy định tại khoản 11 Điều 42 Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế thì hàng hóa là nguyên liệu, vật tư NK để sản xuất hàng hóa XK được áp dụng thời hạn nộp thuế 275 ngày nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Thông tư 128/2013/TT-BTC. Trường hợp không đáp ứng các điều kiện theo quy định nhưng được tổ chức tín dụng bảo lãnh số thuế phải nộp thì thời hạn nộp thuế theo thời hạn bảo lãnh, nhưng không quá 275 ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan và không phải nộp tiền chậm nộp trong thời hạn bảo lãnh.

Trường hợp sử dụng bảo lãnh thì theo quy định tại Điều 19 Thông tư 194/2010/TT-BTC, DN được sử dụng một trong hai hình thức: bảo lãnh riêng hoặc bảo lãnh chung. Nếu lựa chọn hình thức bảo lãnh riêng DN sẽ phải đăng ký bảo lãnh nhiều lần, phát sinh chi phí và gây mất thời gian cho DN. Nếu lựa chọn hình thức bảo lãnh chung thì chỉ được sử dụng tại một Chi cục Hải quan.

DN này đề nghị Tổng cục Hải quan xem xét phương pháp cấp giấy bảo lãnh theo đơn vị trong khoảng thời gian 1 năm đối với tiền trung bình hàng tháng của mức 130% tiền giao dịch 1 năm của DN (đề nghị cân nhắc tiền chậm nộp 1,3 lần). Trường hợp không thực hiện được việc cấp bảo lãnh theo đơn vị năm thì đề nghị xem xét thực hiện theo đơn vị tháng hoặc theo một khoảng thời gian DN mong muốn.

Trả lời kiến nghị này, Tổng cục Hải quan cho biết, căn cứ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 21 Thông tư 128/2013/TT-BTC (đã thay thế Thông tư 194/2010/TT-BTC) thì việc áp dụng bảo lãnh chung tại nhiều Chi cục Hải quan được thực hiện khi cơ quan Hải quan triển khai Hệ thống thông quan điện tử VNACCS/VCIS và Cơ chế một cửa quốc gia.

Ngày 25/3/2014, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan đã ký Quyết định số 865/QĐ-TCHQ ban hành Kế hoạch triển khai Hệ thống VNACCS/VCIS. Theo đó, bảo lãnh chung sẽ được sử dụng tại nhiều Chi cục Hải quan.

Do đó, kiến nghị của DN hiện chưa có quy định pháp lý, đề nghị DN thực hiện theo hình thức bảo lãnh chung nêu trên.

Ân hạn thuế đối với các nguyên liệu NK

DN Hàn Quốc khác cho biết, căn cứ quy định tại Thông tư 128/2013/TT-BTC và công văn số 437/BTC-TCHQ của Bộ Tài chính, từ ngày 1/7/2013 DN được kéo dài thời hạn nộp thuế là 2 năm kể từ ngày NK đầu tiên. Và từ ngày 1/1/2014 không áp dụng ân hạn thuế nguyên liệu NK đối với các nhà NK thuê nhà máy để sản xuất.

“Là một DN đi thuê nhà máy để sản xuất, chúng tôi không được áp dụng ưu đãi thống nhất như các DN khác trong khi chúng tôi đang chịu những gánh nặng do khó khăn về nguồn vốn ngày càng tăng. Vì vậy, đề nghị Chính phủ Việt Nam giảm nhẹ các quy chế để các DN thuê xưởng sản xuất cũng có thể nhận ưu đãi chung”-DN này kiến nghị.

Trả lời kiến nghị này, Tổng cục Hải quan cho biết, điểm a Khoản 1 Điều 20 Thông tư 128/2013/TT-BTC quy định để được áp dụng thời hạn nộp thuế 275 ngày kể từ ngày đăng ký tờ khai, người nộp thuế phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định, trong đó có quy định về việc người nộp thuế có hoạt động XK, NK trong thời gian ít nhất 2 năm liên tục tính đến ngày đăng ký tờ khai hải quan cho lô hàng nguyên liệu, vật tư NK để sản xuất hàng hóa XK. Như vậy, không phải là DN được kéo dài thời hạn nộp thuế là 2 năm kể từ ngày NK đầu tiên theo như nội dung trình bày của DN.

Về vấn đề này, Bộ Tài chính đã có hướng dẫn tại công văn số 437/BTC-TCHQ và công văn số 5495/BTC-TCHQ ngày 26/4/2014. Theo đó, trường hợp DN thuê nhà xưởng, mặt bằng sản xuất của cá nhân, tổ chức (bao gồm cả DN kinh doanh phát triển cơ sở hạ tầng tại Khu chế xuất, Khu công nghiệp, Khu công nghiệp cao, khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu) để sản xuất sản phẩm XK thì DN đi thuê được xem xét áp dụng thời hạn nộp thuế 275 ngày theo quy định với điều kiện hợp đồng thuế đất phải phù hợp với quy định của pháp luật và kéo dài hơn thời hạn hợp đồng sản xuất sản phẩm XK.