Những bài học để ổn định và phát triển trong khủng hoảng

TS. Nguyễn Minh Phong, Nguyễn Trần Minh Trí

(Tài chính) Việt Nam luôn đối diện với nhiều bài toán khó khăn trong quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình đó, Việt Nam đã thể hiện bản lĩnh và trí tuệ của mình với 8 bài học nổi bật để ổn định và phát triển ngày càng bền vững hơn.

Toàn bộ quá trình tái cơ cấu kinh tế cần hướng đến một cơ cấu kinh tế hiện đại và hiệu quả. Nguồn: internet
Toàn bộ quá trình tái cơ cấu kinh tế cần hướng đến một cơ cấu kinh tế hiện đại và hiệu quả. Nguồn: internet

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay khởi đầu từ năm 2008 với sự lạm dụng cho vay kinh doanh bất động sản dưới chuẩn và sự bùng nổ của các chứng khoán nợ phái sinh ở Mỹ đang cho thấy những hệ lụy và các chi phí giải cứu đắt đỏ toàn cầu với các “gói” giải pháp trị giá hàng nghìn tỷ USD của Mỹ, cũng như của các nước châu Âu, châu Á và nhiều nước khác trên thế giới. Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục chịu các tác động của cuộc khủng hoảng này từ nhiều phía, trước hết liên quan đến khó khăn về thị trường xuất khẩu, sụt giảm nguồn cung ngoại tệ từ xuất khẩu, kiều hối, đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán và FDI. Ngoài ra, khủng hoảng còn làm phức tạp thêm cuộc chiến với lạm phát đang trong giai đoạn quyết định ở Việt Nam…

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, chúng ta đang đi đúng hướng với sự cải thiện dần các chỉ số lạm phát và thâm hụt thương mại, thanh toán quốc tế và dự trữ quốc gia. Tỷ giá ổn định, giá trị đồng nội tệ được củng cố. Các khu vực kinh tế từng bước lấy lại đà tăng trưởng. Sự mở rộng các mặt hàng sản xuất xuất khẩu là rất ấn tượng. Vị thế đối ngoại, uy tín “thương hiệu Việt Nam” đang từng bước được củng cố trong sự nhìn nhận và lựa chọn của thế giới. Chính trị ổn định và an sinh xã hội được bảo đảm, Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình và được các doanh nhân, các nhà đầu tư nước ngoài khác coi là đối tác, cơ hội đầu tư tin cậy, một trong những nền kinh tế năng động và hứa hẹn ở khu vực.

Có thể nói, cuộc khủng hoảng có nguyên nhân là vi phạm các “luật chơi” trong đời sống kinh tế và xã hội. Mỗi khi có khủng hoảng, bản lĩnh lại được trau dồi và trí tuệ lại toả sáng, tinh thần đoàn kết và sự đồng thuận trong cộng đồng Việt Nam lại được dịp thử thách, phát huy và củng cố; sự chỉ đạo về mặt Nhà nước được tăng cường, trở nên tập trung, nhất quán hơn và có sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa các cấp, ngành và địa phương, sử dụng đồng bộ và linh hoạt hơn các giải pháp hành chính và thị trường theo hướng toàn diện, mạnh mẽ.

Quá trình đổi mới, kiềm chế lạm phát, vượt qua khủng hoảng thế giới cũng như triển vọng phát triển kinh tế bền vững ở nước ta đã, đang và sẽ còn tùy thuộc rất lớn vào quyết tâm và cách thức tháo gỡ các “nút thắt” sau:

Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ “bàn tay” Nhà nước với “bàn tay” thị trường, coi trọng tính đồng bộ, hài hòa của các mục tiêu, loại công cụ chính sách và sự phối hợp ăn khớp cần có giữa các cơ quan chức năng hữu quan, giữ vững lòng tin cho khu vực kinh tế tư nhân và thị trường tài chính.

Thực tế cho thấy, không chỉ nền kinh tế do Nhà nước chỉ huy tập trung thái quá, mà ngay cả thị trường tự do cao độ cũng không giải phóng triệt để tài năng sáng tạo của cá nhân, không khắc phục được sự bất bình đẳng trong thu nhập và tài sản giữa các tầng lớp, giai cấp trong mỗi nước, giữa nước này với nước khác. Nói cách khác, khi “bàn tay hữu hình” của Nhà nước hoặc nắm quá chặt, hoặc bị buông lỏng quá mức, thì cũng đồng nghĩa với việc tạo ra những nguồn lực và thị trường “ảo”, gây đổ vỡ, tổn thất nặng nề cho đời sống kinh tế - xã hội và môi trường.

Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay chứng tỏ rằng, các khiếm khuyết của thị trường tự do phải được sửa chữa bằng sự can thiệp chủ động, tích cực của Nhà nước, để các quy luật kinh tế khách quan vận động có lợi nhất cho xã hội. Sự kết hợp hài hòa giữa hai “bàn tay” nhà nước và thị trường đòi hỏi sớm khắc phục một số bất cập trong nhận thức về quyền lực chủ quan của Nhà nước với sức mạnh thị trường khách quan; tính ôm đồm đa mục tiêu với tính cụ thể và có hạn trong hoạch định kế hoạch phát triển ngắn, trung hạn vĩ mô và vi mô; kiên quyết cắt giảm các chi tiêu công không mang tính sản xuất, không phục vụ cho các mục tiêu bảo đảm xã hội, an ninh, quốc phòng, cũng như ngăn chặn kịp thời “sự liên minh” giữa các tập đoàn, tổng công ty nhà nước với các ngân hàng thương mại nhà nước và các quan chức có liên quan trong việc vay, cho vay vốn, đầu tư chéo, đầu tư đa ngành hàng nghìn tỷ đồng, mang nặng tính đầu cơ, trục lợi cá nhân hoặc phe nhóm, lũng đoạn thị trường và lãng phí các nguồn lực quốc gia.

Về dài hạn, cần chuyển nhanh từ mô hình “nhà nước - nhà đầu tư lớn nhất” và phát triển chủ yếu theo bề rộng hiện nay, sang mô hình “nhà nước - nhà quản lý công” và phát triển theo bề sâu, đi đôi với việc chuyển nguồn động lực chính trong đầu tư phát triển kinh tế từ khu vực kinh tế nhà nước sang khu vực kinh tế ngoài nhà nước, phù hợp tinh thần cốt lõi của công cuộc đổi mới và theo xu hướng chung trên thế giới; sớm thiết lập cơ chế thị trường cạnh tranh đầy đủ và nâng cao năng lực giám sát, kiểm soát và xử lý sự độc quyền và các vi phạm về giá từ phía các doanh nghiệp và các bên có liên quan. Các giải pháp và công cụ chính sách cần có trọng tâm, trọng điểm, cụ thể hóa chủ trương và cơ chế tổ chức thực hiện trong thực tiễn; đồng thời, cần có sự đồng bộ, nhất quán giữa việc ban hành, triển khai, giám sát, kiểm tra và chế tài hiệu quả các vi phạm chính sách trên thực tế...

Thứ hai, nâng cao chất lượng công tác thông tin, dự báo, phản biện và chủ động các phương án và giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn khủng hoảng.

Cần coi trọng đúng mức và phân biệt rạch ròi giữa yêu cầu dự báo khách quan với mục tiêu chính sách và ý chí chủ quan. Dự báo cần bám sát, cập nhật để đưa ra các cảnh báo cần thiết về các biến động thị trường khách quan trong nước và quốc tế. Đồng thời, cần coi trọng dự báo tác động 2 mặt của chính sách theo yêu cầu quản lý kinh tế thị trường. Việc dự báo, đánh giá tác động 2 mặt tích cực và tiêu cực cả về xu hướng định tính, lẫn về định lượng của việc áp dụng các chính sách và định mức cụ thể trong quá trình điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước là rất quan trọng, nhất là với những mặt hàng đầu vào nhạy cảm của đời sống kinh tế - xã hội đất nước.

Việc coi nhẹ các phản biện xã hội và các đánh giá tác động chính sách (định kỳ hoặc đột xuất) trước và sau khi ban hành do các tổ chức chuyên nghiệp, độc lập thực hiện theo đặt hàng của cấp có thẩm quyền cũng là một bất cập khác trong quy trình lập pháp nói chung, trong công tác dự báo kinh tế nói riêng ở nước ta.

Ngoài ra, cần coi trọng việc xây dựng hệ thống số liệu và dữ liệu thông tin chuyên ngành trực tiếp phục vụ công tác dự báo kinh tế; các chỉ tiêu phục vụ dự báo kinh tế cần được đưa bổ sung vào hệ thống số liệu thống kê quốc gia hằng năm. Trên cơ sở các kết quả dự báo và phản biện đó cùng các yếu tố cần thiết khác, cần chủ động có các phương án, đối sách phòng ngừa hiệu quả cho mọi tình huống khủng hoảng với giả định mức xấu nhất có thể xảy ra. Bởi chưa bao giờ yếu tố thông tin và lòng tin, nhất là trong khu vực kinh tế tư nhân và thị trường tài chính, lại có vai trò nhạy cảm và quan trọng như hiện nay, cả trong phát triển và quản lý khủng hoảng kinh tế.

Thứ ba, coi trọng đào tạo, thu hút sử dụng và tôn vinh nhân tài, các doanh nhân.

Phát triển thị trường nhân lực trình độ cao theo hướng chuyên nghiệp hóa là đòi hỏi ngày càng bức xúc trong thực tiễn kinh tế đất nước cả hiện tại và tương lai.

Đặc biệt, cần đổi mới thực sự công tác cán bộ: từ tiêu chí và quy trình lựa chọn, bồi duỡng, đánh giá, thi tuyển và cơ chế phối hợp giữa trách nhiệm - tự chủ - giám sát - chế tài để cán bộ làm việc với trách nhiệm và năng lực sáng tạo cao nhất, để những người xứng đáng cả về tài và đức, được lựa chọn vào những vị trí quan trọng từ đó cải thiện năng lực, hiệu quả bộ máy công quyền.

Trong mọi thời kỳ phát triển của đất nước phải bảo đảm duy trì nguyên tắc mọi lao động trong xã hội đều sống được bằng lao động chuyên môn của mình. Lợi ích kinh tế cá nhân phải được tôn trọng cùng với lợi ích cộng đồng và siết chặt kỷ luật lao động. Không chỉ sử dụng biện pháp giáo dục hành chính, mà còn cần dùng cả biện pháp cạnh tranh - thất nghiệp để nâng cao hiệu quả và kỷ luật lao động.

Thứ tư, sớm nhận diện và kiên quyết khắc phục tư duy nhiệm kỳ và lợi ích nhóm, coi trọng cuộc đấu tranh không khoan nhượng với tệ nạn tham nhũng.

“Lợi ích nhóm” và “tư duy nhiệm kỳ” có những biểu hiện “muôn hình vạn trạng”, biến màu linh hoạt và ngày càng phủ rộng, cũng như len sâu khắp các lĩnh vực, địa phương, quy mô và các cấp độ.

Sự cố kết của các nhóm lợi ích với các nhà hoạch định chính sách theo tư duy nhiệm kỳ dễ dẫn tới các hành vi tham nhũng hoặc trục lợi, vun vén cá nhân. Đó là những biểu hiện tha hóa trong sử dụng quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị ở các cấp, lĩnh vực, vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật, ăn bám trong quá trình phát triển và tái cơ cấu kinh tế, phá vỡ trật tự, kỷ cương, làm băng hoại các giá trị truyền thống trong các quan hệ cộng đồng và quan hệ trong xã hội công dân, đe dọa cả sự tồn vong chế độ theo các định hướng và yêu cầu phát triển bền vững.

Dân chủ hóa đời sống kinh tế - xã hội phải được tăng cường, đi đôi với xây dựng một nhà nước pháp quyền mạnh. Pháp luật là tối cao, rõ ràng, đồng bộ và nhất quán, đồng thời mang tính hiện đại, theo kịp trình độ phát triển luật pháp và thông lệ quốc tế. Các thủ tục hành chính phải đơn giản hóa, công khai, công bằng, thống nhất, nhanh chóng và trực tiếp. Việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn trong hệ thống cơ quan hành chính phải gắn liền với tăng cường trách nhiệm. Bảo đảm mọi tài sản xã hội, mọi luật định, mọi công việc Nhà nước đều có người chịu trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm hình sự cụ thể, rõ ràng; Quán triệt và thực hiện tốt các nghị quyết của 8 Hội nghị Trung ương của Đại hội XI, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ trọng tâm và điều kiện cần thiết để đẩy mạnh chống tham nhũng, nhận diện và giảm thiểu tình trạng, căn bệnh “lợi ích nhóm”, “tư duy nhiệm kỳ” trong quá trình phát triển và tái cơ cấu kinh tế trong thời gian tới, nhằm cũng cố chế độ, giữ vững và nâng cao hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, vì một Tổ quốc Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ năm, chủ động và không ngừng hoàn thiện cơ sở lý luận, đường lối, pháp luật, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và đề án xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội theo yêu cầu phát triển bền vững.

Thực tiễn khẳng định sự cần thiết và lợi ích to lớn, dài hạn của yêu cầu phát triển kinh tế theo các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, được xây dựng đồng bộ, khoa học, phù hợp bối cảnh và xu thế quốc tế, trong nước và từng địa phương, cũng như đáp ứng các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, tạo ra sự đồng thuận xã hội, kích thích các dòng đầu tư hướng vào các lĩnh vực và địa bàn phù hợp với mục tiêu chiến lược đề ra, có lợi cho quốc kế dân sinh. Dân chủ hóa xã hội và ổn định chính trị là điều kiện để tăng cường hoàn thiện các luật định kinh tế, tạo sức hấp dẫn và cải thiện môi trường kinh doanh.

Ngược lại, việc không ngừng hoàn thiện hệ thống luật pháp kinh tế và môi trường đầu tư, chủ động phân cấp cho địa phương, bảo đảm sự thống nhất và hiệu lực quản lý nhà nước sẽ có tác động trở lại, củng cố sự dân chủ hóa, tăng cường hợp tác, gắn kết kinh tế vĩ mô và vi mô, duy trì ổn định chính trị xã hội - điều kiện tiên quyết cho sự ổn định, phát triển kinh tế.

Thứ sáu, đẩy mạnh tái cấu trúc, đa dạng hóa, bình đẳng hóa và phát triển, quản lý sự hợp tác, gắn kết kinh tế giữa các doanh nghiệp, thành phần kinh tế.

Các nhận thức, quy định pháp lý và thái độ, hành vi biểu hiện sự phân biệt đối xử, cũng như việc thiếu hợp tác, gắn kết kinh tế giữa các doanh nghiệp, thành phần kinh tế dù dưới bất kỳ hình thức và mức độ nào, ít nhiều đều tỏ ra bất cập, trực tiếp và gián tiếp cản trở sự đồng thuận xã hội, nhiệt tình đầu tư và cả hiệu quả đầu tư, cũng như sức cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp. Hơn nữa, điều đó còn tạo kẽ hở và điều kiện làm phát sinh tình trạng tham nhũng, tiêu cực. Vì vậy, một mặt, cần bảo đảm sự bình đẳng và cơ chế thị trường giữa các doanh nghiệp kinh doanh vì lợi nhuận, mặt khác, cần khuyến khích, hỗ trợ và quản lý hiệu quả sự hợp tác, gắn kết kinh tế sâu, rộng, toàn diện, lành mạnh dưới nhiều hình thức đa dạng giữa các doanh nghiệp, thành phần kinh tế.

Nhà nước, thông qua khu vực kinh tế nhà nước, cần tạo điều kiện và có vai trò chủ động, tích cực hơn để thúc đẩy sự gắn kết, hợp tác, liên doanh liên kết trong hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các thành phần kinh tế. Cần mạnh dạn lấy một số doanh nghiệp nhà nước lớn, có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư tư nhân để tiến hành cổ phần hóa thành công ty, tập đoàn kinh tế có sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế, hình thành doanh nghiệp đa sở hữu quy mô lớn và một số tập đoàn kinh doanh mạnh các nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân trong nước cần được phép đầu tư không hạn chế quy mô vào các công ty cổ phần nhà nước khác...

Đặc biệt, cần khuyến khích tư nhân trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển các hình thức liên doanh, chi nhánh. Phát triển các dịch vụ công ích và dịch vụ tài chính khác hỗ trợ lĩnh vực kinh doanh cho mọi doanh nghiệp và thành phần kinh tế (trước hết là các dịch vụ: kế toán; kiểm toán; thuế; tư vấn pháp lý; quản trị kinh doanh; đào tạo chuyên nghiệp, kỹ năng thị trường và các dịch vụ đầu tư) là điều kiện thiết yếu để thúc đẩy và hỗ trợ sự hợp tác, gắn kết kinh tế giữa các doanh nghiệp, thành phần kinh tế.

Thứ bảy, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật hợp lý và đi trước một bước.

Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật hợp lý và đi trước một bước vừa là điều kiện, vừa là động lực và tạo cơ hội đầu tư phát triển kinh tế. Đặc biệt, cần đa dạng hóa các phương thức huy động và đầu tư (BOT, BT, PPP). Việc thu hồi, “bóc tách” và thương mại hóa những tài sản đất đai và bất động sản cùng các tài nguyên công cộng khác trên địa bàn bị chiếm hữu trái phép, sử dụng sai mục đích, quá tiêu chuẩn hoặc không hiệu quả… để đưa vào thị trường vốn là việc cần được quan tâm để tạo điều kiện phát triển các kết cấu hạ tầng đô thị, phát triển thị trường vốn, cải thiện môi trường đầu tư vĩ mô và vi mô trong hiện tại và tương lai.

Thứ tám, coi trọng các nhân tố chất lượng và yêu cầu phát triển bền vững.

Thực tế cho thấy, phát triển kinh tế luôn được coi là mục đích ưu tiên, đặc biệt trong thời kỳ đầu khôi phục và tăng tốc phát triển kinh tế. Việc coi nhẹ các yêu cầu bồi dưỡng tâm hồn, đạo đức, các giá trị xã hội chuẩn mực truyền thống và phổ biến của nhân loại cho các cán bộ và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ dễ dẫn đến sự sùng bái một chiều, thiếu cân nhắc các giá trị thị trường, đề cao đồng tiền, cái tôi và lối sống buông thả, thực dụng, lạnh lùng; làm gia tăng tình trạng băng hoại đạo đức, tha hóa, tội phạm và bất ổn trong xã hội và mỗi gia đình.

Thực tế ô nhiễm các sông, hồ, ao, các làng nghề và ô nhiễm không khí trên toàn quốc đã được nhận thức, song còn cần nhiều hơn các quy định và hoạt động thiết thực, cụ thể để ngăn chặn, giảm thiểu và khắc phục.

Chất lượng phát triển và yêu cầu phát triển bền vững còn đòi hỏi nâng cao chất lượng các công trình xây dựng cơ bản đã, đang và sẽ tiếp tục triển khai trên địa bàn, nhằm bảo đảm an ninh, an toàn cho người sử dụng, giảm thiểu các tổn thất về người và vật chất cho công tác bảo dưỡng, duy tu, khắc phục sự cố phát sinh trong tương lai, cũng như để góp phần tạo nguồn thu kinh phí để hoàn vốn đầu tư.

Toàn bộ quá trình tái cơ cấu kinh tế cần hướng đến một cơ cấu kinh tế hiện đại và hiệu quả, vì con người và phát triển tương lai bền vững.