Tồn kho tiền, hàng và vốn - vấn đề nan giải của nền kinh tế hiện nay

Theo Đại biểu Nhân dân

Thảo luận về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2012; việc triển khai thực hiện kế hoạch phát triển triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2013, nhiều ý kiến cho rằng, để nền kinh tế có thể phục hồi trong những tháng cuối năm và trong những năm tiếp theo, vấn đề cốt lõi là phải quyết liệt thực hiện đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế. Quốc hội không chỉ nhận diện rõ những nguyên nhân của lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và vấn đề tồn kho, mà nghiêm trọng hơn cả là sự tồn kho tiền, hàng và vốn - được coi là vấn đề nan giải của nền kinh tế hiện nay…

Tồn kho tiền, hàng và vốn - vấn đề nan giải của nền kinh tế hiện nay
Một số ý kiến cho rằng đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế sẽ khó triển khai thực hiện thành công. Nguồn: Internet
Đại biểu Quốc hội Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị): Vướng mắc trong thực hiện đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế đang nằm ở đâu?
 
Trong năm 2013 khả năng tăng trưởng kinh tế chỉ nằm trong khoảng từ 5 - 5,5% với lý do tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong những tháng cuối năm chưa hé mở những tín hiệu đột biến tích cực. Điều quan trọng hiện nay không phải là cố gắng tạo ra tăng trưởng cao mà phải giữ ổn định kinh tế vĩ mô để thực hiện tái cơ cấu và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực xã hội vào các mục tiêu phát triển. Nghị quyết Quốc hội cũng yêu cầu năm 2013 phải đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Song báo cáo quá trình tái cơ cấu nền kinh tế chưa đề cập rõ yêu cầu đối với ổn định kinh tế vĩ mô, chưa đáp ứng được mong đợi và kỳ vọng của dư luận xã hội, kết quả thẩm tra của Ủy ban Kinh tế cũng cho thấy tái cơ cấu của nền kinh tế chuyển đổi mô hình tăng trưởng chưa có những chuyển biến cụ thể. Chính vì vậy, một số ý kiến còn cho rằng đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế sẽ khó triển khai thực hiện thành công. Vậy vướng mắc đang nằm ở đâu?

Có rất nhiều nguyên nhân đã nhìn nhận mổ xẻ tại nhiều diễn đàn khác nhau liên quan đến chỉ đạo điều hành, sự chi phối của các nhóm lợi ích đến các trách nhiệm lập pháp và giám sát của Quốc hội, nhưng xét cho cùng chính chúng ta chưa đề ra được yêu cầu đối với ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó có yếu tố lạm phát.

Thứ nhất, các nghiên cứu gần đây cho thấy nguyên nhân chính của lạm phát trong những năm gần đây bao gồm: cung tiền và tăng trưởng tín dụng quá mức, lạm phát do cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư không hợp lý, nguyên nhân này là sâu xa và tác động dài hạn cho các khoản đầu tư sau; không hiệu quả và do cơ cấu kinh tế không thích ứng với năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và không tạo ra giá trị tăng cao, tiêu tốn nhiều tài nguyên trong nước.

Thực tế vào tháng 11/2012, báo cáo Quốc hội về việc thực hiện đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế, Chính phủ nêu một trong bốn khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung, khu vực ngân hàng nói riêng là vì quyền lợi cá nhân một số cổ đông lớn của các ngân hàng thương mại, cổ phần yếu kém, thiếu sự hợp tác hoặc chống đối với chính sách, biện pháp cơ cấu lại của Ngân hàng Nhà nước. Đến nay thay vì báo cáo kết quả giải quyết vướng mắc này, Ngân hàng Nhà nước vẫn báo cáo rằng đây là một trong các nguyên nhân khiến cho quá trình tái cơ cấu lại ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém diễn ra chậm hơn so với dự kiến mà không nêu được hướng xử lý và khả năng xử lý.

Còn tái cơ cấu doanh nghiệp (DN) Nhà nước, một trong ba trọng tâm của tái cơ cấu nền kinh tế thì vướng mắc rất quan trọng chỉ ra câu chuyện tái cơ cấu Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, mặc dù Chính phủ đã yêu cầu Tổng công ty chuyên phân phối khí của tập đoàn phải có đề án tái cơ cấu vào đầu tháng 9/2012 nhưng DN này xin lùi thời gian tới tháng 9/2013 và đến thời điểm hiện tại, đề án đến nay vẫn chưa thực hiện được. Như vậy, các nguyên nhân dẫn đến lạm phát ổn định và bất ổn định kinh tế vĩ mô vẫn chưa được xử lý và giải quyết một cách rốt ráo và đang chờ Quốc hội đưa ra các giải pháp xử lý thích đáng mới tạo ra được sự ổn định kinh tế vĩ mô lâu dài.

Thứ hai, đó là vấn đề tồn kho, chừng nào vấn đề tồn kho của DN vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng về các trách nhiệm và biện pháp khắc phục thì việc khôi phục và duy trì tính ổn định của kinh tế vĩ mô còn xa vời. Bởi thế tôi rất mong qua các phiên thảo luận tại Kỳ họp này, Quốc hội không chỉ nhận diện rõ những nguyên nhân của lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và vấn đề tồn kho mà nghiêm trọng hơn cả là sự tồn kho tiền, hàng và vốn được coi là vấn đề nan giải của nền kinh tế hiện nay.

Vấn đề tồn kho thể chế, tồn kho kiến nghị và đặc biệt là tồn kho trách nhiệm và giải pháp để có thể ưu tiên cả trí lực và tài lực cho việc giải quyết rốt ráo các vấn đề cấp bách cũng như khởi động lại quá trình tái cơ cấu tạo chuyển biến căn cơ cho nền kinh tế. 
 
Đại biểu Quốc hội Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng): Khi dư địa điều hành chính sách tiền tệ không còn nhiều thì sự đột phá trong chính sách đầu tư sẽ mang lại những kết quả quan trọng
 
Thứ nhất, thời gian qua mặc dù Chính phủ đã có những giải pháp quyết liệt trong việc điều hành nền kinh tế và đã đem lại nhiều kết quả tích cực, đã hoàn thành và vượt 11/15 chỉ tiêu đề ra, tuy nhiên cần phải phân tích thật sâu sắc 4 chỉ tiêu đã phấn đấu nhưng không đạt được, đặc biệt là chỉ tiêu GDP. Trên cơ sở đó cần có những giải pháp hữu hiệu chỉ đạo sát sao quyết liệt hơn để đến năm 2013 hoàn thành tất cả các chỉ tiêu đã đề ra.
 
Thứ hai, một trong các vấn đề đáng quan tâm hiện nay là hoạt động của các DN. Đây là lực lượng chính đóng góp phần lớn cho GDP đang gặp rất nhiều khó khăn. Số lượng DN ngừng hoạt động giải thể hoặc phá sản tăng, nhiều ý kiến cho rằng nguyên nhân chính là do lãi suất cho vay quá cao, các DN khó tiếp cận vốn vay của ngân hàng. Tôi cho rằng không hoàn toàn chính xác như vậy, vì đến thời điểm này theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước thì lãi suất đã giảm từ 7 - 11% so với cuối năm 2011. Mặt bằng lãi suất thậm chí thấp hơn năm 2007 thời điểm trước khủng hoảng, có DN sản xuất tốt còn được mời vay với lãi suất tương đương với lãi suất huy động. Các ngân hàng thậm chí cạnh tranh nhau để tìm kiếm khách hàng vay. Vậy vấn đề là do đâu? theo tôi sức hấp thụ của nền kinh tế đã ở ngưỡng báo hoảng, không thể kỳ vọng việc tiếp tục giảm lãi suất sẽ làm tăng cầu tín dụng.

Trong bối cảnh kinh tế khó khăn khi sức mua yếu, hàng tồn kho cao, vấn đề đầu ra chưa được giải quyết thì ngay cả những DN đang hoạt động cũng chỉ cầm chừng, không dám vay vốn ngân hàng, vấn đề đặt ra làm thế nào để kích thích tín dụng đi lên. Tôi đề nghị vấn đề cốt lõi và quan trọng trước hết là tập trung xử lý nợ xấu, khẩn trương đưa công ty quản lý tài sản vào hoạt động, từ đó khơi thông dòng tiền vào nền kinh tế và đưa đồng vốn đầu tư trong những lĩnh vực có hiệu quả. Ngoài ra, do tổng cầu suy giảm, hàng tồn kho chính là nút thắt của tín dụng - đó là lý do tại sao ngân hàng đã giảm mạnh lãi suất nhưng tín dụng vẫn chưa được cải thiện nhiều. Vì thế, Chính phủ cần có giải pháp thu hút đầu tư, kích cầu tiêu dùng, giải phóng hàng tồn kho và khôi phục niềm tin cho thị trường.
 
Thứ ba, vấn đề xử lý nợ xấu, trong thời gian qua Ngân hàng Nhà nước đã rất nỗ lực trong xử lý nợ xấu. Chỉ riêng ngành ngân hàng nỗ lực là chưa đủ. Với diễn biến kinh tế như hiện nay cần xác định xử lý nợ xấu sẽ mất nhiều thời gian, tốn kém và không phải cứ muốn là xử lý được ngay. Đề nghị Chính phủ cần có những giải pháp quyết liệt hơn để các cấp, các ngành cùng vào cuộc tháo gỡ khó khăn chung cho nền kinh tế, trong khi dư địa điều hành chính sách tiền tệ không còn nhiều thì sự đột phá trong chính sách đầu tư cũng sẽ mang lại những kết quả quan trọng trong bối cảnh tháo gỡ khó khăn hiện nay.
 
Thứ tư, về vấn đề vàng thời gian qua và hiện nay. Theo tôi thị trường vàng trong một thời gian dài đã phát triển một cách tự phát, không được sự quản lý chặt chẽ, không có định hướng cụ thể và tác động lớn đến tỷ giá và dự trữ ngoại tệ của đất nước. Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai quyết liệt Nghị định số 24 của Chính phủ, không thể phủ nhận một số kết quả bước đầu mà Ngân hàng Nhà nước đã đạt được như hạn chế tình trạng vàng hóa, chấm dứt việc huy động và cho vay vốn bằng vàng, chấn chỉnh vai trò thanh toán, vai trò tiền tệ của vàng nhưng vẫn bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong việc mua bán, cất trữ vàng. Thị trường vàng ổn định đã góp phần ổn định tỷ giá, nhờ vậy cung cấp ngoại tệ cân bằng, nhu cầu ngoại tệ phục vụ nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu được bảo đảm, mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã giải thích cho rằng mức chênh lệch giữa giá vàng trong nước với thế giới không ảnh hưởng tới tỷ giá thị trường ngoại tệ và không gây mất ổn định kinh tế vĩ mô như các giai đoạn trước đây. Điều này gây tâm lý nhất định trong một bộ phận nhân dân. Tôi đề nghị và hy vọng với hoạt động của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian tới chênh lệch giữa vàng trong nước và vàng thế giới sẽ thu hẹp dần theo đúng Nghị quyết của Quốc hội đề ra.
 
Thứ năm, nông nghiệp là lĩnh vực ưu tiên nhưng chưa đạt được kỳ vọng. Giá cả nông sản giảm trong khi đó đời sống của một bộ phận nông dân gặp khó khăn. Đề nghị Chính phủ tiếp tục có những chính sách ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn; đầu tư hạ tầng nông thôn, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy xuất khẩu, trợ giá một số mặt hàng, xây dựng thành công nông thôn mới.
 
Thứ sáu, về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động thất nghiệp sau khi các DN ngừng sản xuất, phá sản trong thời gian qua chưa đáp ứng được theo yêu cầu, mong muốn. Công tác hướng nghiệp, tạo việc làm mới cho sinh viên ra trường gặp nhiều khó khăn, chưa đem lại hiệu quả cao. Chính sách ưu đãi đối với người nghèo, gia đình chính sách, người có công, sinh viên, người tàn tật, người độc thân, trẻ mồ côi, chính sách y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, an sinh xã hội dù đã được quan tâm nhưng chưa toàn diện, chưa đáp ứng được những vấn đề bức thiết của cuộc sống xảy ra hiện nay. Vì vậy, đề nghị Chính phủ cần có những quyết sách hợp lý và quyết liệt hơn nữa để khắc phục tình trạng trên.
 
Đại biểu Quốc hội Trương Văn Vở (Đồng Nai): Một trong những việc cần làm ngay là tháo gỡ “nút thắt” ngân hàng thừa thanh khoản
 
Tôi đề nghị Chính phủ quan tâm, bổ sung làm rõ nguyên nhân về trách nhiệm cá nhân của Bộ, ngành liên quan trong việc cụ thể hóa giải pháp thực hiện mục tiêu nhiệm vụ kinh tế - xã hội theo Nghị quyết 31 của Quốc hội về việc triển khai thực hiện đề án tái cơ cấu nền kinh tế. Phải nói là triển khai tái cơ cấu nền kinh tế rất là chậm, chưa căn bản, chưa tạo thành hệ thống, chưa phân bổ sử dụng các nguồn lực có hiệu quả. Do vậy, ngoài việc tập trung xử lý những vấn đề cấp bách phải quan tâm, phải quyết tâm tạo sự chuyển mạnh mẽ trong quản lý điều hành thực hiện cơ chế huy động các nguồn lực để thực hiện các đột phá theo hướng ưu tiên cho các lĩnh vực dự án có tác động lan tỏa cao, nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ kinh tế - xã hội bảo đảm an dân ngay từ năm 2013. Theo tôi có 4 vấn đề cần phải quan tâm.

Một là, việc cần làm ngay đó là tháo gỡ nút thắt ngân hàng thừa thanh khoản, cùng với việc thực hiện giải pháp phân bổ nguồn lực từ nguồn ngân sách nhà nước theo hướng thoát khỏi tầm nhìn hàng năm. Giải pháp trọng tâm đặt ra là phải quyết liệt trả nợ đọng xây dựng cơ bản cho DN. Kịp thời hướng dẫn thực hiện gói hỗ trợ cho đối tượng thuê, mua nhà ở xã hội. Đây là giải pháp thúc đẩy giải quyết nợ xấu hiện nay.

Hai là, để bảo đảm thực hiện tốt việc phát triển kinh tế bền vững, nhất là việc di dời các cơ sở gây ô nhiễm môi trường ở khu dân cư đô thị, mang tính chất đô thị cao và bảo vệ môi trường lưu vực sông như sông Đồng Nai, đề nghị Chính phủ quan tâm hỗ trợ và có chính sách hỗ trợ di dời các DN ở khu công nghiệp Biên Hòa 1 - Đồng Nai, khu kỹ nghệ Biên Hòa trước đây theo chủ trương cho phép của Chính phủ từ tháng 10/2009.

Ba , kịp thời sửa đổi, bổ sung đồng bộ thể chế chính sách nhằm tạo môi trường thuận lợi trong sản xuất nông nghiệp, quản lý và bảo vệ rừng, cụ thể là: tăng mức đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Từ 2010 đến nay mức đầu tư ngân sách nhà nước cho nông nghiệp nông thôn rất thấp, trên dưới 1,5% GDP. Trong khi đóng góp của nông nghiệp vào GDP trên dưới 20%. Đây là quyết sách lâu bền của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Hoàn thiện chính sách khuyến khích nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, chính sách khuyến khích liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản giữa nông dân và DN trên cơ sở thay thế Quyết định 80 năm 2002 của Chính phủ theo lời hứa của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn từ Kỳ họp thứ Hai đến nay chưa được ban hành. Tiến hành quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu phục vụ chế biến thức ăn gia súc nhằm hạn chế DN nước ngoài chi phối về giá cả, về nguyên liệu sản xuất thức ăn gia súc nhằm giúp người chăn nuôi ổn định, khắc phục thua lỗ. Kịp thời rà soát, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật về lộ trình thực hiện kế hoạch bảo vệ, phát triển rừng giai đoạn 2011 - 2020 theo nghị quyết của Quốc hội nhằm hạn chế thấp nhất tình trạng phá rừng, bảo vệ môi trường rừng. Tôi xin nhấn mạnh, không vì thủy điện mà làm ảnh hưởng đến rừng đặc dụng, vườn quốc gia.

Bốn là, tôi kỳ vọng với quyết tâm đổi mới bộ máy quản lý nhà nước phân định rõ cơ chế trách nhiệm cá nhân ở các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở để thực hiện ba đột phá chiến lược trong năm 2013 không để lợi ích nhóm chi phối sẽ tạo được chuyển biến mới trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế.
 
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Văn Hiến (Bà Rịa - Vũng Tàu): Đã từ nhiều năm nay, chúng ta chấp nhận một thực tế vô lý về số liệu GDP
 
Đã từ nhiều năm nay, chúng ta chấp nhận một thực tế vô lý về số liệu GDP của các địa phương luôn cao hơn gấp rưỡi, gấp đôi GDP quốc gia. Mấy năm gần đây vấn đề sinh tử của nền kinh tế là giải quyết “cục máu đông” nợ xấu và tồn kho bất động sản. Nhưng mức độ tin cậy của các số liệu này là rất thấp.

Cuối năm 2012 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho rằng nợ xấu khoảng 10% trong khi Thanh tra Ngân hàng Nhà nước cho rằng nợ xấu là 8,6%. Trong báo cáo tại kỳ họp này là 7,8%. Cùng thời gian Ủy ban Giám sát tài chính đưa ra con số 11,8%. Tháng 3/2013, Ngân hàng Nhà nước thông báo nợ xấu còn 6%. Cách đây vài ngày Ngân hàng Nhà nước quyết định lùi áp dụng thực hiện Thông tư 02 về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro cho đến ngày 1/6/2014 mà lẽ ra đến ngày kia là phải áp dụng. Để nhằm tháo gỡ khó khăn cho DN, Thông tư 02 nằm trong tổng thể những cố gắng làm lành mạnh, để tái cơ cấu hệ thống ngân hàng như Thống đốc nói: "áp dụng Thông tư 02 là để nhận diện đúng hơn về con số thực, bản chất nợ xấu". Nhưng vấn đề ở đây nếu áp dụng Thông tư 02 thì nợ xấu hiện tại của một ngân hàng có thể chỉ từ 3 - 4% sẽ tăng lên 10 - 15% hoặc hơn nữa như ý kiến của các chuyên gia kinh tế đã phân tích. Như vậy, con số thực, bản chất nợ xấu nghiêm trọng hơn nhiều những gì đã công bố.

Cho đến giờ này, chúng ta thực sự không biết lượng tồn kho bất động sản là bao nhiêu. Các số liệu của cơ quan quản lý và của Hiệp hội Bất động sản, của các tổ chức nghiên cứu là rất khác nhau: 200.000 căn hay 400.000 căn, 83.000 tỷ đồng hay 40.000 tỷ đồng? Nợ công là bao nhiêu, 55% GDP hay 95% như nghiên cứu của Ủy ban kinh tế và liệu có an toàn? Tại sao mỗi năm hơn 50.000 DN phá sản hoặc ngừng hoạt động, số DN còn lại phải giảm quy mô hoạt động ít nhất 30%, vốn đầu tư toàn xã hội càng ngày càng giảm mà tạo việc làm mới cứ đều đặn hàng năm từ 1,5 - 1,6 triệu người và tỷ lệ thất nghiệp hàng năm cứ giảm: năm 2010: 2,8%; năm 2011: 2,22%; năm 2012: 1,99%.

Những con số cứ như được cài đặt vậy, có tin được không khi các địa phương giải quyết khiếu nại đạt 85,61%; giải quyết tố cáo đạt 89% trong khi 77,51% khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. Tin vào con số nào khi trong 10 ngày tết Bộ Y tế báo cáo có 25.000 người bị tai nạn, còn Ủy ban An toàn giao thông quốc gia là 700. Có nên vui mừng khi lần đầu tiên sau rất nhiều năm số người chết do tai nạn giao thông dưới 10.000 người. Có nên phấn khởi khi theo thống kê có 6,85 triệu lượt khách quốc tế đến nước ta... Điện lực, xăng dầu lúc nào cũng bảo lỗ, ai biết thực hư thế nào - lời của Chủ tịch Hội thống kê Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê.

Ý kiến của nhiều Đại biểu Quốc hội băn khoăn về các số liệu thống kê có cơ sở, những con số thiếu độ tin cậy có thể do kỹ thuật, có thể do phương pháp, có thể do trách nhiệm, do thiếu minh bạch và do cả bệnh thành tích nữa. Không có số liệu đúng và đủ, không thể đưa ra đánh giá đúng tình hình, không thể dự báo chính xác các xu hướng, không thể đưa ra các quyết sách, chủ trương, giải pháp đúng được và như thế sẽ gặp rất nhiều rủi ro. Không thể chấp nhận "người dân thấy sao thì lướt thì cứ biết vậy đi" như ông Chủ tịch Hội thống kê nói…