Tài chính cho các trường đại học công lập khi thực hiện cơ chế tự chủ

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 11/2019

Trong bối cảnh mới, nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học công lập còn hạn hẹp, việc tăng cường huy động và huy động có hiệu quả các nguồn lực tài chính cho giáo dục đại học công lập, hướng tới phát triển nhanh, toàn diện và bền vững trở thành một yêu cầu cấp thiết. Nhận diện những khó khăn, thách thức trong thực hiện cơ chế tự chủ đối với các trường đại học công lập, ở nước ta bài viết đề xuất một số giải pháp huy động hiệu quả nguồn lực tài chính cho các trường đại học công lập khi thực hiện cơ chế tự chủ.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Tài chính cho giáo dục đại học

Nguồn tài chính cho giáo dục đại học (GDĐH) gồm nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) và nguồn thu hợp pháp của các cơ sở GDĐH. Nguồn NSNN cho GDĐH là các khoản chi NSNN cho các cơ sở GDĐH công lập. Ngoài ra, một phần NSNN chi cho GDĐH để thực hiện chính sách, chế độ của Nhà nước đối với sinh viên học tập trong các cơ sở GDĐH ngoài công lập (chủ yếu là chính sách đối với học sinh, sinh viên là con em gia đình có công với cách mạng, gia đình thuộc diện chính sách; học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân tộc thiểu số rất ít người...).

Cơ chế tài chính GDĐH (gồm chi NSNN cho GDĐH; phương pháp phân bổ NSNN cho GDĐH) thực hiện theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL), Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của ĐVSNCL, trong đó có cơ sở GDĐH công lập. Cơ chế quản lý chi NSNN cho GDĐH (chi đầu tư và chi thường xuyên và phương pháp phân bổ NSNN cho GDĐH) được thực hiện theo các quy định chung của Luật NSNN, Luật Đầu tư công và các văn bản hướng dẫn. Nguồn thu hợp pháp của các cơ sở GDĐH (công lập và ngoài công lập) bao gồm thu học phí; các khoản thu hợp pháp và nguồn vốn vay, viện trợ, tài trợ theo quy định.

Khó khăn, thách thức khi thực hiện cơ chế tự chủ đối với các trường đại học công lập

Hiện nay, đối với các trường đại học công lập,  việc thực hiện cơ chế tự chủ đang gặp một số khó khăn, thách thức sau:

Thứ nhất, nguồn tài chính của các trường đại học công lập (ĐHCL) còn hạn hẹp, chưa được đa dạng hóa, điều này dẫn đến khó khăn cho các trường trong việc thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính; NSNN vẫn phải đảm bảo một phần không nhỏ kinh phí hoạt động thường xuyên cho số lượng lớn các trường ĐHCL.

Các trường ĐHCL có 03 nguồn tài chính chủ yếu: (i) Nguồn kinh phí NSNN cấp; (ii) Nguồn thu học phí; (iii) Nguồn thu từ hoạt động dịch vụ, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Theo đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo, học phí là một trong những nguồn tài chính quan trọng của các trường ĐHCL. Tuy nhiên, học phí của các trường nhìn chung còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội thực tế của đất nước nên chưa thể có mức thu cao.

Về nguyên tắc, các trường ĐHCL thu học phí theo khung học phí do Nhà nước quy định. Mức học phí hiện nay được đánh giá là chưa phù hợp với chi phí đào tạo thực tế của các nhóm ngành, các bậc đào tạo.

Đối với các trường ĐHCL, việc xác định giá dịch vụ đào tạo tại thời điểm hiện nay chưa tính đủ các chi phí thực tế phát sinh (tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý, chi phí khấu hao tài sản cố định), nên mức thu học phí còn thấp, chưa sát thực tế, nguồn thu từ học phí chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn tài chính.

Nhà nước đã ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương đối đầy đủ, rõ ràng về sử dụng NSNN, sử dụng tài sản của các trường ĐHCL (Luật NSNN, Luật Đầu tư công, Luật Quản lý tài sản công... và các văn bản hướng dẫn). Tuy nhiên, vẫn còn phát sinh các vướng mắc trong quá trình thực hiện dẫn đến văn bản luật chưa đi vào cuộc sống, phần nào làm hạn chế việc sử dụng vốn, tài sản vào các hoạt động liên doanh, liên kết phục vụ nhiệm vụ đào tạo, chưa mang lại nguồn thu mong muốn cho các trường ĐHCL. Theo đánh giá của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, các trường ĐHCL chưa chủ động về nguồn thu, chủ yếu vẫn dựa vào nguồn NSNN. Đây là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến việc thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính của các trường ĐHCL, kết quả tự chủ về tài chính chưa cao.

Thứ hai, có sự khác biệt nhất định trong việc phân bổ chi NSNN (chi thường xuyên) cho các trường ĐHCL.

- Cơ chế tài chính đối với các trường ĐHCL (bao gồm chi NSNN cho các trường; phương pháp phân bổ NSNN cho các trường) thực hiện theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ còn mang tính bình quân, dựa trên khả năng của NSNN và các yếu tố đầu vào khác (số lượng các trường ĐHCL; quy mô, số lượng sinh viên; số lượng nhân viên; lịch sử phân bổ NSNN các năm trước...) mà chưa gắn với tiêu chí chất lượng và kết quả đầu ra, hoặc các chính sách về đấu thầu, đặt hàng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công. Việc phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL thông qua cơ quan chủ quản khác nhau của các trường ĐHCL (các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh), dẫn đến biểu hiện có sự không thống nhất về tiêu chí phân bổ, chưa thực sự công bằng trong việc thụ hưởng NSNN.

- Trong quá trình xây dựng dự toán NSNN hàng năm và cho cả giai đoạn thực hiện tự chủ 03 năm, còn có hiện tượng một số trường ĐHCL xác định chưa đầy đủ nguồn thu ngoài NSNN (thu học phí, thu hoạt động dịch vụ, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ...), hoặc xác định chưa chính xác nhiệm vụ chuyên môn dẫn đến sai lệch về tỷ lệ hỗ trợ chi thường xuyên của NSNN (xác định giảm nguồn thu; đồng thời xác định tăng tổng số chi dẫn đến tỷ lệ thu/chi giảm, làm tăng tỷ lệ hỗ trợ từ NSNN). Bên cạnh đó, có hiện tượng có sự biến động đáng kể về nguồn thu, hoặc nhiệm vụ chuyên môn liên quan đến tổng chi thường xuyên của trường đại học trong thời gian thực hiện tự chủ, nhưng trường đại học và cơ quan chưa kịp thời xác định, dẫn tới còn có sự sai lệch nhất định về số kinh phí NSNN cấp chi thường xuyên cho các trường đại học.

Thứ ba, Nhà nước đã ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương đối đầy đủ, rõ ràng về sử dụng NSNN, sử dụng tài sản của các cơ sở GDĐH (Luật NSNN, Luật Đầu tư công, Luật Quản lý tài sản công... và các văn bản hướng dẫn). Tuy nhiên, vẫn còn phát sinh vướng mắc trong quá trình thực hiện dẫn đến văn bản luật chưa đi vào cuộc sống, phần nào làm hạn chế việc sử dụng vốn, tài sản vào các hoạt động liên doanh, liên kết phục vụ nhiệm vụ đào tạo, chưa mang lại nguồn thu mong muốn cho các cơ sở GDĐH.

Thứ tư, thực tế cho thấy, phương án tài chính của một số cơ sở GDĐH (công lập và ngoài công lập) chưa thực sự phù hợp; trong những giai đoạn nhất định, một số cơ sở GDĐH tập trung nhiều vào mục tiêu tăng thu nhập cho người lao động mà chưa thực sự đầu tư cho tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy và học tập.

Một số đề xuất, kiến nghị

Thời gian tới cần tập trung một số giải pháp sau:

Thứ nhất, về chi NSNN cho các trường đại học công lập

- Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, các địa phương (cơ quan chủ quản của các trường ĐHCL) thực hiện tốt nhiệm vụ đã được quy định tại Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về “Sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể các trường đại học, cơ sở giáo dục và đào tạo hoạt động không hiệu quả, không nhất thiết tỉnh nào cũng có trường đại học. Sắp xếp, tổ chức lại, tập trung xây dựng một số trường sư phạm trọng điểm để đào tạo đội ngũ giáo viên và quản lý giáo dục”.

Thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ góp phần cơ cấu lại chi NSNN cho GDĐH nói chung, cho các trường ĐHCL nói riêng. NSNN sẽ được chi cho số lượng trường ĐHCL đã được cơ cấu lại, tập trung cho các trường có chất lượng cao và một số trường có tính chất đặc thù thông qua các phương thức chi mới như: Đặt hàng, đấu thầu, tránh việc chi NSNN cho những trường hoạt động không hiệu quả hoặc cho những trường không cần thiết phải duy trì hoạt động.

- Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, nghiên cứu ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các quy định về tiêu chí chất lượng và chuẩn kết quả đầu ra trong GDĐH, làm căn cứ nghiên cứu thay đổi phương thức phân bổ, sử dụng NSNN cho GDĐH và cho các trường ĐHCL, để dần tiến tới việc phân bổ NSNN cho GDĐH theo chuẩn kết quả đầu ra.

Thứ hai, về học phí và giá dịch vụ giáo dục đào tạo, giá dịch vụ đào tạo

Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cả nước có 170 trường đại học công lập (không bao gồm các trường đại học thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng); trong đó có 18 trường thuộc UBND các tỉnh, thành phố và 152 trường thuộc các Bộ, cơ quan trung ương. Tại thời điểm hiện nay, có 21 trường đại học công lập tự chủ toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên và vốn đầu tư; có 149 trường đại học công lập tự chủ một phần kinh phí hoạt động thường xuyên.

- Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu để từng bước giải quyết các vấn đề bất cập về học phí trong các trường đại học, đảm bảo lợi ích của trường đại học (ví dụ mức học phí cần tương xứng với mức độ, chất lượng cung cấp dịch vụ đào tạo...), nhưng cần phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội đất nước. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu đề xuất để thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với người học.

- Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, sớm nghiên cứu quy định về định mức kinh tế kỹ thuật đối với GDĐH, bảo đảm khoa học và phù hợp với thực tiễn, làm cơ sở để tính đúng, tính đủ các chi phí cấu thành trong giá dịch vụ đào tạo và xác định mức học phí.

Thứ ba, về quản trị tài chính của các cơ sở giáo dục đại học

- Các trường ĐHCL xác định tự chủ về tài chính gắn với tự chủ thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự; tự chủ thực hiện nhiệm vụ chuyên môn là tiền đề để tạo nguồn thu, làm cơ sở cho việc thực hiện tự chủ tài chính. Ngược lại, từ việc tự chủ về tài chính tạo cơ sở cho việc tự chủ về chuyên môn và tổ chức bộ máy có chất lượng và hiệu quả cao hơn;

- Các trường ĐHCL cần chủ động trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tài chính theo hướng tự chủ nguồn thu, nhiệm vụ chi; tránh tình trạng trường ĐHCL trông chờ vào nguồn NSNN. Việc chủ động về nguồn tài chính cần thiết phải được phối hợp hài hòa trong mối quan hệ giữa tự chủ nhiệm vụ chuyên môn.

- Về xác định mức thu học phí: Đề nghị các trường dựa trên kinh nghiệm hoạt động của từng trường, dự báo nhu cầu của xã hội để xác định quy mô tuyển sinh, ngành nghề đào tạo thế mạnh… và xác định mức học phí bảo đảm lợi ích của nhà trường, đồng thời phù hợp khả năng đóng góp của xã hội.

- Tạo nguồn thu từ hoạt động dịch vụ, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ để tăng nguồn tài chính cho hoạt động của nhà trường.

Thứ tư, về phía các cơ quan chức năng

Các cơ quan chủ quản cần chỉ đạo các trường đại học trực thuộc thực hiện đúng, đủ các quy định của nhà nước có liên quan về tự chủ tài chính, bao gồm việc xác định nguồn thu, nhiệm vụ chuyên môn và nhiệm vụ chi để kịp thời xác định và điều chỉnh các chỉ tiêu liên quan, bảo đảm cho việc phân bổ NSNN cho các trường đại học phù hợp với thực tế.       

Tài liệu tham khảo:

Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ quy định cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015-2016 đến năm học 2020-2021;

Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với một số cơ sở GDĐH công lập giai đoạn 2014-2017;

Báo cáo số 370/BC-BGDĐT ngày 31/5/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo trình bày tại phiên chất vấn ngày 06/6/2018, kỳ họp thứ 5 Quốc hội Khóa XIV;

Báo cáo số 370/BC-BGDĐT ngày 31/5/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo;

John Fielden, Global trends in university governance, World Bank, 2008.