Cơ chế quản lý tài chính tại các trường đại học công lập ngành Y trong điều kiện tự chủ tài chính

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 9/2019

Bài viết phân tích thực trạng thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các trường đại học công lập ngành Y tại khu vực miền Bắc, đề xuất một số giải pháp tăng cường cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị này.

Cơ chế quản lý tài chính đối với các trường đại học công lập nói chung, các trường đại học đào tạo ngành Y nói riêng có vai trò rất quan trọng. Nguồn: internet
Cơ chế quản lý tài chính đối với các trường đại học công lập nói chung, các trường đại học đào tạo ngành Y nói riêng có vai trò rất quan trọng. Nguồn: internet

Cơ chế quản lý tài chính đối với các trường đại học công lập nói chung, các trường đại học đào tạo ngành Y nói riêng có vai trò rất quan trọng nhằm đảm bảo việc huy động, sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí thực hiện các mục tiêu phát triển trong bối cảnh chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế tự chủ tài chính.

Quản lý tài chính tại các trường đại học công lập ngành Y khu vực miền Bắc

Hoạt động đào tạo của các trường đại học công lập ngành Y mang những đặc thù nhất định, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến cơ chế quản lý tài chính (QLTC) tại mỗi trường trong điều kiện tự chủ. Cơ chế QLTC trong điều kiện tự chủ tại các trường đại học tập trung chủ yếu vào các nội dung tự chủ về nguồn thu, các khoản chi, quản lý và sử dụng kết quả tài chính.

Đến nay, Việt Nam có 20 trường đại học công lập đào tạo các lĩnh vực của ngành Y tế; Trong đó, có 16 trường đào tạo chuyên ngành Y tế và 4 trường đào tạo đa ngành về y tế; Khu vực miền Bắc có 11 trường đại học y… Các trường đại học công lập ngành Y tại khu vực miền Bắc thực hiện cơ chế quản lý tài chính như sau:

Về quản lý khai thác nguồn thu

Hiện nay, các trường có hai nguồn thu chính là nguồn thu từ ngân sách nhà nước (NSNN) cấp và nguồn thu sự nghiệp tại trường. Cụ thể:

Nguồn thu từ NSNN cấp

Nguồn kinh phí NSNN cấp cho các trường có tỷ lệ khác nhau. Đối với các trường ở thành phố lớn và có thương hiệu mạnh như Đại học Y Hà Nội do nguồn thu lớn nên nguồn NSNN cấp chỉ chiếm tỷ lệ thấp và có xu hướng giảm. Đối với các trường ở địa phương do nguồn thu còn hạn chế nên nguồn thu từ NSNN cấp chiếm tỷ lệ cao hơn. Ví dụ, Trường Đại học Y Dược Thái Bình năm 2016, 2017, tỷ lệ nguồn kinh phí của NSNN trong tổng thu của nhà trường lần lượt là 32,02% và 29,95%.

Nguồn thu sự nghiệp tại các trường đại học công lập ngành Y

Nguồn thu sự nghiệp tại các trường trong những năm qua có xu hướng phát triển, tập trung vào các nguồn thu sau:

- Thu từ học phí: Nguồn thu này chiếm tỷ lệ khá nhỏ (khoảng dưới 10%) trong tổng thu sự nghiệp đối với trường Đại học Y Hà Nội nhưng lại là nguồn thu đáng kể (thường hơn 30% trong tổng thu sự nghiệp) tại các trường đại học đào tạo ngành Y đặt tại các địa phương như: Đại học Y Dược Hải Phòng, Đại học Y Dược Thái Bình, Đại học Y Dược Thái Nguyên. Mức học phí được các trường xác định hiện nay căn cứ theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ. Theo đó, các trường chỉ được điều chỉnh mỗi năm tăng khoảng 10% so với mức quy định tại Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ, do đó chưa đảm bảo bù đắp đủ chi phí hoạt động cần thiết của trường. Điều đó gây khó khăn cho các trường khi muốn đầu tư nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao thương hiệu và tính cạnh tranh. 

- Thu từ các bệnh viện trực thuộc trường: Hiện nay, nguồn thu này đang trở thành nguồn thu lớn nhất từ hoạt động sự nghiệp tại các trường. Đối với Đại học Y Hà Nội, nguồn thu từ bệnh viện trong nhiều năm qua chiếm hơn 80% tổng thu sự nghiệp. Các trường đại học khác ở địa phương khoản thu này cũng chiếm tỷ lệ từ 35% đến 40% tổng thu sự nghiệp. Tuy nhiên, hàng năm số kinh phí mỗi bệnh viện trực thuộc nộp cho các trường thường thấp hơn nhiều so với kinh phí khấu hao máy móc thiết bị mà các trường đã đầu tư. Trong đó, khi các bệnh viện lại sử dụng số lượng lớn máy móc, trang thiết bị, đội ngũ giảng viên, nhân viên y tế của trường. Điều này vừa gây khó khăn cho việc tái đầu tư tài sản vừa tạo ra sự chênh lệch về đời sống cán bộ, nhân viên trong trường, nhất là với các nhân viên không trực tiếp được làm tại các bệnh viện.

- Thu từ thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học: Nguồn thu này chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng thu sự nghiệp của các trường. Vì phần lớn các đề tài nghiên cứu khoa học của các trường đang được thực hiện là của cán bộ, giảng viên. Việc được giao, nhận đơn đặt hàng thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, chuyển giao khoa học công nghệ trong lĩnh vực y tế còn ít nên hoạt động này chưa đem lại nguồn thu tương xứng với uy tín, thương hiệu của mỗi trường.

Về việc quản lý chi tiêu

Các khoản chi tiêu của các trường gồm 2 nhóm chính là chi thường xuyên và chi không thường xuyên. Căn cứ vào quy định của Nhà nước, các trường xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ và thực hiện theo quy trình lập dự toán để xác định nhu cầu chi phí cho hoạt động và tổ chức thực hiện.

Đối với chi thường xuyên: Chi thường xuyên bao gồm các khoản chi như: chi cho con người, chi mua sắm sửa chữa thường xuyên, chi hoạt động chuyên môn đào tạo, chi hoạt động dịch vụ khám chữa bệnh và các khoản chi khác. Tuy nhiên, do đặc thù đào tạo của ngành sử dụng một khối lượng lớn hóa chất, vật tư tiêu hao, súc vật thí nghiệm, một số trường việc thông qua và ban hành định mức sử dụng nguyên vật liệu, thuốc, vật tư hóa chất phục vụ công tác giảng dạy chưa thực hiện nghiêm túc, còn xảy ra tình trạng mua sắm trực tiếp theo nhu cầu nhỏ lẻ, chưa sát với thực tế nên dẫn đến tình trạng tồn kho nhiều, gây lãng phí trong hoạt động chi thường xuyên.

Đối với chi không thường xuyên: Những năm qua, nguồn chi thường xuyên của các trường chủ yếu là nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản và các dự án chi cho mua sắm và nâng cao năng lực đào tạo của các trường. Kết thúc dự án, các trường lập báo cáo quyết toán theo dự án hoàn thành trình Bộ Y tế phê duyệt.

Về phân phối kết quả tài chính

Nhìn chung, với các trường đại học công lập ngành Y khu vực miền Bắc có kết quả tài chính khả quan do thu lớn hơn chi. Phần chênh lệch được sử dụng để trích lập các quỹ cơ quan theo quy định và chi thu nhập tăng thêm cho người lao động. Tuy vậy, ở một số trường việc trích lập các quỹ còn chưa phù hợp, đôi khi hạch toán sai hoặc sử dụng quỹ không đúng mục đích, chưa đảm bảo nguyên tắc công bằng, để động viên kịp thời người lao động tích cực làm việc.

Một số giải pháp đề xuất

Để tăng cường cơ chế quản lý tài chính tại các trường đại học công lập ngành Y khu vực miền Bắc trong điều kiện tự chủ, tác giả đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản sau:

Về công tác quản lý

Các trường cần chủ động xây dựng và thực hiện cơ chế phân cấp, sớm trao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị trực thuộc, tạo sự thay đổi về mô hình quản trị của các trường. Bên cạnh đó, lãnh đạo trường cần tập trung, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn của nhân viên phòng tài chính kế toán để thực hiện tốt hơn việc tham mưu các công việc như lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát tình hình tài chính chung của mỗi trường.

Về công tác chuyên môn

Thứ nhất, tăng cường quản lý khai thác nguồn thu.

- Đối với nguồn thu từ học phí: Các trường cần chủ động xác định chi phí đào tạo làm cơ sở quản lý chi phí và ban hành mức thu học phí. Về nguyên tắc mức học phí cần tiếp cận chi phí đào tạo, với chi phí đào tạo bình quân tính cho 01 sinh viên/năm có thể xác định như sau:

Tổng chi phí đào tạo bình quân = Chi phí cho con người bình quân (tại trường và bệnh viện) + Chi phí hoạt động đào tạo bình quân (tại trường) + Chi phí hoạt động đào tạo bình quân (tại bệnh viện)

Nguồn: Lê Văn Dụng, 2017

Tuy nhiên, việc điều chỉnh phải gắn với việc đảm bảo khả năng tiếp cận giáo dục đại học đối với các đối tượng chính sách. Nhà nước tiếp tục hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng thụ hưởng, cấp học bổng chính sách, học bổng tài năng cho sinh viên, liên hệ với các ngân hàng để thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất. Mỗi trường cần chủ động nhận đơn đặt hàng đào tạo của Nhà nước với những chuyên ngành đặc thù như bác sỹ tâm thần, bác sỹ pháp y. Số lượng sinh viên nhận đặt hàng được cân đối theo quy hoạch và dự báo, nhu cầu sử dụng từng thời kỳ, kinh phí NSNN cấp để đảm bảo đạt chất lượng theo yêu cầu đặt ra...

- Đối với nguồn thu từ bệnh viện trực thuộc: Các trường cần có sự xem xét và thỏa thuận lại giữa lãnh đạo trường và bệnh viện về số kinh phí mà bệnh viện nộp sang trường trên nguyên tắc minh bạch, vì lợi ích chung, cùng phát triển góp phần trực tiếp cải thiện đời sống của toàn bộ người lao động trong toàn trường. Do đó, các khoản phải trả sau phải được tính toán minh bạch giữa bệnh viện trực thuộc với nhà trường gồm: Một phần tiền lương, tiền công của bác sỹ, học viên, sinh viên làm việc cho các bệnh viện; một phần doanh thu do các giảng viên bác sỹ làm việc tại bệnh viện và các học viên, sinh viên tham gia khám, chữa bệnh tạo ra; chi phí chuyển giao khoa học kỹ thuật trong khám và điều trị bệnh khi được nhà trường chuyển giao cho bệnh viện; chi phí thuê tài sản hoặc khấu hao tài sản cố định mà bệnh viện sử dụng của trường.

- Đối với nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học: Cần tăng dần tỷ trọng thu từ hoạt động nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ thông qua việc định hướng thành lập nghiên cứu. Để đảm bảo chất lượng nhóm nghiên cứu mạnh, không nên gói gọn sự phát triển của nhóm nghiên cứu trong phạm vi một đơn vị đào tạo, mà có sự kết nối và mở rộng quy mô, thu hút các thành viên ở các đơn vị đào tạo đại học khác tham gia. Muốn vậy, các trường cần có quy định cụ thể trong quy chế chi tiêu nội bộ như quy đổi giờ nghiên cứu khoa học, chế độ công tác phí, quyền lợi của nhóm nghiên cứu khi sản phẩm đi vào ứng dụng thực tế... 

- Đối với các nguồn thu khác: Mỗi trường cần thực hiện tốt hơn các hoạt động hợp tác, đào tạo quốc tế để tiếp cận với các nguồn vốn của các tổ chức nước ngoài, nâng dần tỷ trọng sinh viên nước ngoài theo học tại trường. Đây là hoạt động quan trọng tăng nguồn thu, để hướng tới sự phát triển bền vững của mỗi trường.

Thứ hai, tăng cường quản lý chi tiêu.

Mỗi trường cần sớm thành lập Hội đồng thông qua và ban hành định mức sử dụng nguyên vật liệu, thuốc, vật tư hóa chất phục vụ công tác giảng dạy cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Các định mức sử dụng vật tư được xây dựng chi tiết theo từng bài giảng, số lượng bài giảng trong kỳ nhằm xây dựng nhu cầu vật tư trong năm phù hợp, làm căn cứ để lập hồ sơ mời thầu theo quy định, hạn chế mua sắm trực tiếp, giảm thiểu sự lãng phí, thất thoát. Bên cạnh đó, cần chú trọng việc lập dự toán chi và tổ chức chi bám sát dự toán, đảm bảo tính khoa học, tiết kiệm, hợp lý. 

Thứ ba, tăng cường công tác phân phối kết quả tài chính.

Việc phân phối kết quả tài chính tại các trường phải thực hiện đúng theo quy định của Nghị định số 16/2015/NĐ-CP về trích lập, sử dụng các quỹ cơ bản như: Quỹ Phát triển hoạt động sự nghiệp, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi. Trong đó, đối với việc xây dựng và thực hiện các khoản chi về thu nhập tăng thêm từ quỹ cần gắn với hiệu quả, kết quả công việc của từng cá nhân, bộ phận, không nên phân chia theo hướng cào bằng dựa trên mức bình quân hoặc theo hệ số lương như hiện nay.          

Tài liệu tham khảo:

1. Chính phủ (2015), Nghị định số 16/2015/NĐ - CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập;

2. Báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước các năm 2017, 2018 của trường Đại học Y Hà Nội, trường Đại học Y Dược Hải Phòng, trường Đại học Y Dược Thái Bình, trường Đại học Y Dược Thái Nguyên;

3. Trần Thế Cường (2016), Mở rộng tự chủ tài chính đối với bệnh viện công lập ở Việt Nam (Qua khảo sát các Bệnh viên công lập trên địa bàn TP. Hà Nội), Luận án Tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân;

4. Lê Văn Dụng (2017), Quản trị tài chính tại các trường đại học công lập ngành Y ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế, trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội.