Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung: 5 “vũ khí mềm” của Trung Quốc

Theo Quốc Đạt/daibieunhandan.vn

Cả Mỹ và Trung Quốc đã khai hỏa cuộc chiến thương mại lớn nhất lịch sử kinh tế thế giới với những vũ khí riêng. Trước những pha tấn công trực diện bằng thuế suất của Washington, đòn phản công của Bắc Kinh có thể là gì?

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Ngày 15/6 vừa qua, Chính phủ Mỹ và Trung Quốc đã áp mức thuế mang tính trừng phạt lên tới 25% nhằm vào lượng hàng hóa xuất khẩu trị giá 50 tỷ USD của nhau. Hiện tại, Chính quyền Tổng thống Donald Trump chuẩn bị danh mục hàng hóa Trung Quốc trị giá lên tới 200 tỷ USD bị tăng thuế nhập khẩu thêm 10% (nhiều khả năng có hiệu lực từ tháng 9).

Một quan chức Mỹ khẳng định cần 2 tháng để hoàn thành danh sách hàng hóa mới. Sau đó, Tổng thống Donald Trump sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về việc đánh thuế số hàng hóa này.

Không thể chạy đua trả đũa Washington về kim ngạch hàng hóa trao đổi, vì tổng kim ngạch hàng hóa Mỹ nhập khẩu vào Trung Quốc chưa tới 250 tỷ USD, Bắc Kinh sẽ phải tìm đến những “vũ khí mềm” để phản công. Có 5 công cụ gây áp lực kinh tế mà Trung Quốc thường sử dụng những năm gần đây, nhiều khả năng được tái áp dụng trong cuộc chiến cam go đang diễn ra.

Thứ nhất, trì hoãn thủ tục hải quan. Chính phủ Trung Quốc có thể chỉ đạo các cơ quan hải quan tăng cường thủ tục kiểm tra hải quan để trì hoãn quá trình thông quan hàng hóa, qua đó làm gia tăng chi phí đối với hàng hóa nhập khẩu.

Dù đây không phải chiến thuật mới trong các cuộc chiến thương mại, mà từng xảy ra trong cuộc chiến hàng điện tử giữa Pháp và Nhật Bản năm 1982, song giới chức Trung Quốc có nhiều kinh nghiệm triển khai biện pháp này.

Chính Trung Quốc từng sử dụng những biện pháp như vậy vào đầu năm nay đối với nhiều mặt hàng nhập khẩu của Mỹ, trong đó có rượu mạnh, hoa quả tươi, gỗ nguyên liệu và xe máy.

Cách làm của Trung Quốc đã khiến hàng hóa bị ứ đọng trong những tháng quan hệ song phương căng thẳng. Nếu cuộc chiến thương mại hiện nay leo thang, giới chức Trung Quốc có thể áp đặt những rào cản khắc nghiệt hơn và danh sách hàng hóa mục tiêu có thể lớn hơn.

Thứ hai, áp dụng mang tính phân biệt đối xử các quy định pháp luật nhằm khiến công ty Mỹ phải “trả giá” nhiều hơn cho các cơ sở sản xuất hay trung tâm bán lẻ tại Trung Quốc.

Nhà chức trách Trung Quốc đã sử dụng các cuộc điều tra tham nhũng, kiểm tra thuế và thậm chí thường xuyên tiến hành các cuộc kiểm tra y tế hay an toàn lao động để cản trở hoạt động của các công ty nước ngoài có tranh cãi chính trị với nước này.

Chẳng hạn, trong bước đi nhằm trả đũa quyết định của Seoul triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa tầm trung giai đoạn cuối (THAAD) hồi năm 2016 - 2017, chuỗi siêu thị Lotte của Hàn Quốc đã bị ép phải đóng gần 90 cửa hàng tại Trung Quốc với cáo buộc vi phạm các quy định về phòng cháy chữa cháy.

Do đó, 20 cửa hàng của chuỗi siêu thị Wal-Mart (Mỹ) có thể đối mặt với số phận tương tự, hay các hãng chế tạo xe nổi tiếng Ford và General Motors có thể phải hứng chịu những khoản phạt “trên trời rơi xuống” hoặc bị gián đoạn dây chuyển sản xuất.

Thứ ba, gây khó khăn trong quá trình cấp giấy phép. Hầu hết các lĩnh vực kinh doanh tại Trung Quốc đều yêu cầu phải được cấp phép. Trong một báo cáo mới đây, Nhà Trắng miêu tả quá trình cấp phép này là “mù mờ, nhập nhằng và tùy tiện”. Các cơ quan cấp phép có thể thu hồi hoặc trì hoãn quá trình cấp giấy phép cho các công ty Mỹ.

Thứ tư, khả năng kiểm soát hoạt động du lịch ra nước ngoài. Thông qua một loại biện pháp chính thức và phi chính thức, như chỉ đạo các hãng du lịch không được bán gói tour tới một số địa điểm nhất định, Bắc Kinh đã hạn chế du lịch tới Philippines (năm 2012), Đài Loan (2016) và mới đây nhất là Hàn Quốc (năm 2017) khiến nước này thiệt hại 15,6 tỷ USD và 402.000 việc làm.

Dù Mỹ có thể là một mục tiêu “khó nhằn” hơn vì nước này ít phụ thuộc vào các gói tour, song bất kỳ sự sụt giảm nào về số lượng khách du lịch vẫn sẽ ảnh hưởng tới nguồn thu 33 tỷ USD mà du khách Trung Quốc chi hàng năm để tới Mỹ.

Thứ năm có thể là những hành động tẩy chay không chính thức đối với hàng hóa và công ty - doanh nghiệp Mỹ. Lấy ví dụ khi tranh chấp liên quan tới quần đảo Điếu Ngư/Senkaku bùng nổ năm 2012, chính quyền và truyền thông Trung Quốc đã khuyến khích người dân nước này tẩy chay các công ty Nhật Bản, dẫn tới việc hàng trăm cửa hàng, nhà máy và văn phòng của Nhật Bản phải đóng cửa.

Chiến thuật tẩy chay cũng ảnh hưởng tới các công ty Hàn Quốc trong vụ tranh cãi xoay quanh kế hoạch của Seoul triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa THAAD. Thực tế là các công ty Mỹ làm ăn ở Trung Quốc có thể thiệt hại nghiêm trọng nếu bị tẩy chay do Mỹ xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ nhiều hơn tới nền kinh tế số 2 thế giới.

Khách hàng Trung Quốc có thể tẩy chay 3.300 cửa hàng cà phê Starbucks để chuyển sang dùng thương hiệu cà phê UBC hoặc họ có thể mua điện thoại di động hiệu Xiaomi thay vì iPhone, trong khi Trung Quốc là thị trường lớn thứ ba của hãng Apple.

Tất nhiên, các đòn trả đũa của Trung Quốc không phải là miễn nhiễm đối với chính họ, bởi lao động Trung Quốc có thể mất việc làm và các công ty phụ thuộc vào đối tác Mỹ có thể phá sản. Tuy nhiên, Chính phủ Trung Quốc sẽ hướng tới những mặt hàng và dịch vụ có khả năng dễ dàng được người tiêu dùng trong nước thay thế hoặc gây tác động tối thiểu đối với nhà sản xuất.

Trong cuộc chiến này, Mỹ sẽ trở thành bên thua thiệt, bởi Chính phủ Mỹ có thể tiếp tục leo thang “ăn miếng trả miếng” về thuế suất đối với Trung Quốc trong một thời gian nhất định, song Mỹ khó có thể phản đòn với những “vũ khí mềm” như Trung Quốc.

Bởi nền tảng pháp lý và các quy định được xây dựng để bảo vệ hoạt động và đầu tư của công ty nước ngoài làm ăn tại Mỹ chính là những rào cản nếu Washington muốn trừng phạt các công ty Trung Quốc theo cách tương tự.